Đoàn kết nhân dân vì hòa bình và phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới

(Mặt trận) - Chúng ta đã và đang chứng kiến sự phát triển trong nhiều thập kỷ của thế giới và khu vực, từ chỗ bị chia rẽ, đối đầu bởi chiến tranh, nay dần đi vào quỹ đạo hòa bình, an ninh và hợp tác, tạo tiền đề cho một thời kỳ phát triển năng động hơn. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Trong đó, đoàn kết nhân dân vì hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh yêu cầu của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới về dự Chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ nhất năm 2018. Ảnh Trí Dũng - TTXVN 
Đại đoàn kết vì hòa bình và phát triển

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, ngày nay các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp. Đoàn kết dân tộc, đoàn kết nhân dân vì hòa bình, an ninh đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng rất nhiều thách thức. Ở Việt Nam sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”1. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế cùng với những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực.

Mặc dù vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”2. Trong đó, “các thế lực thù địch cấu kết với các phần tử phản động, cơ hội chính trị trong nước chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là phá hoại nền tảng chính trị, tư tưởng, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”3. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.

Trong giai đoạn cách mạng mới, Ðảng ta khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, cần “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”4. Đảng, Nhà nước ta, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách kịp thời, trong đó nhấn mạnh việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tính mạng và ổn định đời sống của Nhân dân, được đặt lên trên hết, trước hết.

Để phát huy những thành tựu to lớn đạt được trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp quốc. Tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết nhân dân, trước hết phải vì hòa bình, an ninh và phát triển bền vững; tăng cường tiềm lực chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh; gắn thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân vững chắc... đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đồng thời, tiếp tục phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc. Như vậy, tư duy mới của Đảng ta về đoàn kết nhân dân là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Yêu cầu đó đòi hỏi phải phát huy cao độ mọi tiềm năng với sự thống nhất cao cả về ý chí, nghị lực, trí tuệ của Nhân dân. Vì vậy, để xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế... dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước.

Khát vọng hòa bình tự do và độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là những yếu tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cứu nước giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là niềm vinh dự, tự hào không gì sánh nổi của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, sẵn sàng hy sinh để giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc trước những kẻ thù có sức mạnh quân sự lớn hơn gấp nhiều lần. Nhờ đoàn kết nhân dân vì hòa bình, an ninh và phát triển.

Lịch sử nhân loại đã chọn Việt Nam làm tâm điểm của ý chí, bản lĩnh và trí tuệ con người trong chiến tranh. Ý chí đó được phát huy cao độ trong quá trình đấu tranh cách mạng của một dân tộc biết đánh thắng kẻ thù xâm lược, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản; biết đoàn kết đấu tranh anh dũng, kiên cường, với khát vọng vì độc lập, tự do thống nhất đất nước; vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh; đồng thời lưu giữ, tôn tạo những di tích - địa danh lịch sử điển hình về sự ác liệt, tàn bạo của chiến tranh xâm lược do chủ nghĩa đế quốc tiến hành trên đất nước ta trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX còn để lại.

Những năm qua, trên cơ sở phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, các tỉnh, thành phố của Việt Nam đã tích cực xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc. Các cấp, các ngành, các địa phương và lực lượng vũ trang nhân dân đã không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức đầy đủ hơn về mục tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong điều kiện mới. Điều đó đã làm cho Nhân dân đồng thuận, tin tưởng, đoàn kết, tích cực thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trọng trách thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Hiệu quả của việc làm đó có ý nghĩa thời đại sâu sắc, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược được thể hiện tập trung trên những vấn đề cơ bản là: ý thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ngày càng vững chắc. Cùng với đó, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mọi cấp, mọi ngành đã chú trọng và kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, đoàn kết nhân dân vì hòa bình, an ninh và phát triển bền vững được xác định là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên trong chương trình, kế hoạch hành động của cấp ủy, chính quyền các cấp. Các chương trình phối hợp hành động giữa các tổ chức, ban ngành, đoàn thể trong thực hiện nhiệm vụ đã chú ý đề cập tới các yêu cầu về hòa bình và phát triển bền vững. Đồng thời, các cấp, các ngành và địa phương đã chú trọng huy động các nguồn lực kinh tế, khoa học, công nghệ... cho thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong tình hình mới. Công tác dân vận của Đảng đã được triển khai rộng khắp trên các địa bàn chiến lược, tới tất cả các khu vực dân cư, từ nông thôn, thành thị, đến các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, cả trên các vùng biển, hải đảo. Có thể khẳng định: nơi nào có Nhân dân là nơi đó có các hoạt động công tác dân vận và đoàn kết dân tộc, đoàn kết nhân dân.

Ngày nay, đất nước ta đã, đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, sâu, rộng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những quan điểm tư tưởng chỉ đạo mới của Đảng ta là: Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Vì vậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vì hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ chính trị lâu dài, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, của lực lượng vũ trang nhân dân.

Định hướng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn mới

Một là, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, nâng cao nhận thức cho các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân; nhất là trong từng tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội về chủ trương, đường lối của Đảng, về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết nhân dân; nhất là các quan điểm đã được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, “tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạnh, đạo đức lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm với đất nước, với xã hội”5. Tiếp tục thể chế và cụ thể hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ... Thực hiện tốt công bằng xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Hai là, các bộ, ngành, địa phương cần gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Thực tế cho thấy, nếu chúng ta giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, khắc phục sự chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền, khu vực, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, sẽ tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường chăm lo xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc là cơ sở để xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết nhân dân.

Trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ, ngành và của từng địa phương, các cấp cần chú trọng kết hợp hài hòa giữa lợi ích kinh tế và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở địa phương và Trung ương, nhất là việc chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng trang bị vũ khí, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước về tăng cường đoàn kết, mở rộng đối ngoại và hợp tác quốc tế. Đây vừa là định hướng vừa là giải pháp cơ bản nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh của khối đại đoàn kết, mở rộng đối ngoại và hợp tác quốc tế để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Coi trọng thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng cường đoàn kết toàn dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; thực hiện tốt các quy định của luật pháp về tăng cường quốc phòng - an ninh trên các địa bàn, hướng chiến lược.

Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác, đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình và phát triển bền vững. Phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân hưởng thụ”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chú thích:

1,2,4,5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tập I, tr. 25, 34, 109, 168.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.109.

3. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2019, tr.20.

Hàn Vũ Tuyển

Viện Phát triển Văn hóa Dân tộc

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều