|
So với Luật Đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến việc lấy ý kiến của người dân trong lĩnh vực đất đai. Ảnh minh họa
|
Vấn đề lấy ý kiến của Nhân dân trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Do quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những phương thức để quản lý Nhà nước (là căn cứ để giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất) nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng đất của người dân nói chung và người sử dụng đất nói riêng. Vì vậy, việc lấy ý kiến đóng góp của người dân được thực hiện trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở tất cả hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bao gồm cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng - an ninh.
Điều 43 Luật Đất đai quy định: đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh thì phải công khai thông tin về nội dung trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện thì ngoài hình thức công khai nội dung trên trang thông tin điện tử thì việc lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân còn được thực hiện qua hình thức tổ chức hội nghị trực tiếp. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là bởi vì, một trong những sửa đổi của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003 là đơn vị hành chính cấp xã không lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương mà nội dung sử dụng đất cấp xã được thể hiện trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện. Điều này có nghĩa là kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý sử dụng đất đai của chính quyền cấp xã và việc sử dụng đất của người dân. Vì vậy, nhận được sự quan tâm đặc biệt của người dân.
Đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng - an ninh thì Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều này vừa đảm bảo tính bí mật về quốc phòng, an ninh vừa bảo đảm tính dân chủ.
Thời gian lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là 30 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định tổ chức lấy ý kiến. Cơ quan có trách nhiệm lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, có trách nhiệm xây dựng báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến của Nhân dân và hoàn thiện phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước khi trình Hội đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Lấy ý kiến người dân trong lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những vấn đề khó khăn, phức tạp và luôn gặp phải trở ngại trong quá trình thực thi do người có đất bị thu hồi không đồng thuận với phương án bồi thường, tái định cư. Do đó, việc tham vấn ý kiến của người dân trong quá trình lập phương án bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vấn đề này được đề cập tại khoản 2 Điều 69 của Luật Đất đai. Theo đó tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, tái định cư theo hình thức họp trực tiếp với người dân, đồng thời niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản và có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất bị thu hồi. Sau đó có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền.
Có thể thấy, so với Luật Đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến việc lấy ý kiến của người dân trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, ngoài quy định lấy ý kiến người dân trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và trong việc lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì Luật Đất đai không còn quy định nào khác về vấn đề tham vấn ý kiến của Nhân dân. Luật Đất đai là một đạo luật quan trọng liên quan trực tiếp đến mọi người dân. Nhân dân vừa là chủ sở hữu đất đai, vừa là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước, đối tượng chấp hành và thụ hưởng các chủ trương, chính sách về đất đai lại ít được đề cập đến. Khi được đề cập đến thì ngay trong nội dung của các quy định về việc lấy ý kiến của Nhân dân cũng còn nhiều bất cập.
Về việc lấy ý kiến người dân trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Trong trường hợp cơ quan Nhà nước thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không thực hiện lấy ý kiến của Nhân dân vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc việc tổ chức lấy ý kiến thực hiện không đúng quy định về thời gian lấy ý kiến thì xử lý như thế nào? Trong trường hợp lấy ý kiến góp ý của Nhân dân vào dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà đa số ý kiến của người dân phản đối thì cơ quan tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có điều chỉnh, sửa đổi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không? Luật Đất đai năm 2013 cũng chưa quy định rõ trách nhiệm giải trình của cơ quan lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối với ý kiến chưa đồng tình của Nhân dân.
Trong việc lấy ý kiến người dân về lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng chưa được quy định rõ ràng. Luật Đất đai năm 2013 không thể hiện rõ quan điểm lựa chọn nguyên tắc đồng thuận nào trong việc lấy ý kiến người dân, "đồng thuận tương đối" hay "đồng thuận tuyệt đối", tỷ lệ bao nhiêu % ý kiến người bị thu hồi đất đồng ý với phương án bồi thường thì được coi là đồng tình. Trường hợp nào điều chỉnh toàn bộ, trường hợp nào điều chỉnh một phần phương án bồi thường. Luật Đất đai cũng không quy định rõ trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp không thay đổi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi đại đa số ý kiến người bị thu hồi không đồng tình với phương án này. Chính những quy định này dẫn đến việc lấy ý kiến của người dân chỉ mang tính hình thức, không đạt được hiệu quả trên thực tế.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Luật Đất đai
Luật Đất đai là một đạo luật lớn, tuy nhiên trong 212 Điều của Luật Đất đai chỉ có 6 điều quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 69, 70, 71, 198, 200, 202). Trong đó, chủ yếu tập trung vào các điều khoản về vận động, thuyết phục, hòa giải, giám sát… Ví dụ:
+ Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện (điểm d khoản 1 Điều 69).
+ Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định kiểm đếm bắt buộc sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục (điểm a khoản 1 Điều 70).
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác (khoản 3 Điều 202).
Vì Luật Đất đai ban hành song song với Hiến pháp năm 2013 và ban hành trước Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 nên chưa thể hiện đầy đủ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thể hiện trong Hiến pháp và trong Luật.
Theo Hiến pháp 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng tham gia xây dựng các văn bản chính sách, pháp luật về đất đai; giám sát việc thực hiện những chính sách pháp luật về đất đai và phản biện xã hội đối với các chương trình, dự án liên quan đến đất đai.
Điều 199 Luật Đất đai năm 2013 quy định 2 hình thức giám sát của người dân, là "tự mình hoặc thông qua các tổ chức đại diện thực hiện quyền giám sát và phản ánh các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất". Luật chỉ nêu về hình thức Nhân dân tham gia vào quá trình thực hiện quyền, trách nhiệm thông qua hình thức dân chủ đại diện là thông qua các cơ quan như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Còn cơ chế để Nhân dân trực tiếp tham gia giám sát thì Luật chưa quy định. Bên cạnh đó, chưa có quy định về vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần của Hiến pháp và của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Một số kiến nghị về việc nâng cao vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo sửa đổi Luật Đất đai
Ngày 9/9/2021, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký ban hành quyết định số 1732/QĐ-BTNMT về Kế hoạch chi tiết xây dựng dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Với quan điểm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai, trong thời gian tới, đề nghị cần sửa đổi Luật Đất đai với một số nội dung:
- Bổ sung quy định về chế tài xử lý đối với trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không thực hiện trách nhiệm lấy ý kiến của người dân vào dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc việc tổ chức lấy ý kiến không thực hiện đúng quy định. Cần có quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan này đối với các ý kiến không đồng tình của người dân với hình thức, trình tự, nội dung cụ thể.
- Ban hành quy định cụ thể hóa việc lấy ý kiến người bị thu hồi đất về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; trong đó đề cập rõ cụ thể tỷ lệ % ý kiến người dân bị thu hồi đất đồng ý với phương án bồi thường được coi là đồng tình, tỷ lệ % ý kiến người dân phản đối phương án bồi thường được coi là không đồng tình; trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong trường hợp điều chỉnh phương án bồi thường khi đại đa số người có đất bị thu hồi không đồng ý với phương án bồi thường đó...
- Bổ sung các quy định về vai trò "phản biện xã hội" của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia xây dựng, phản biện các dự thảo văn bản luật và văn bản dưới luật, các chương trình, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do các cơ quan Nhà nước ban hành theo tinh thần của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị).
- Bổ sung các quy định về giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và Nhân dân cũng như các cơ chế để thực hiện. Quy định rõ ràng hơn về đối tượng giám sát, hình thức người dân giám sát, quy định về trách nhiệm tiếp nhận, tiếp thu và giải trình của cơ quan nhà nước khi nhận được ý kiến của người dân...
Phùng Thị Ngọc Yến
ThS, Ban Dân chủ - Pháp luật, UBTW MTTQ Việt Nam