Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng môi trường đầu tư từ năm 2010 đến 2020

(Mặt trận) - Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, cửa ngõ Tây - Bắc của Thủ đô Hà Nội. Sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc trở thành địa phương có sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện về kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những nguyên nhân cơ bản mang lại thành tựu đó là Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch để thu hút vốn đầu tư hiệu quả bằng những bước đi, cách làm sáng tạo.

Bài viết dưới đây góp phần làm rõ thêm chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng môi trường đầu tư từ năm 2010 đến năm 2020, kết quả đạt được cùng một số kinh nghiệm rút ra, giải pháp thực hiện thời gian tới.

 

 Các đại biểu bỏ phiếu bầu BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc khóa XVII.
1. Chủ trương chỉ đạo và thành tựu đạt được

Trên cơ sở những kết quả thu được trong thời gian trước, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015) đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2015, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI”[1]. Để thực hiện mục tiêu trên, Đại hội đề ra phương hướng và các nhóm giải pháp, trong đó xây dựng môi trường thu hút đầu tư hiệu quả được coi là một giải pháp trọng tâm: “Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất, kinh doanh nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển”[2]. Chủ trương, chính sách của tỉnh giai đoạn này là tập trung thu hút các dự án đầu tư sử dụng công nghệ sạch, giá trị gia tăng lớn, tiết kiệm đất, hướng tới các dự án sử dụng công nghệ cao, các dự án công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh thu hút các dự án trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững. 

Tiếp đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) xác định mục tiêu: “Phấn đấu xây dựng Vĩnh Phúc trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, du lịch của Vùng và cả nước, cơ bản hoàn thành khung đô thị tiến tới trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI”[3]. Về vấn đề thu hút vốn đầu tư, Đại hội đề ra phương hướng: Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính;  xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng cơ chế, chính sách đúng quy định, phù hợp với tình hình thực tế, tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Chỉ tiêu thu hút mới 1,3 - 1,5 tỷ USD vốn đăng ký từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 14.000 - 15.000 tỷ đồng vốn đăng ký từ các dự án đầu tư 100% vốn trong nước (DDI).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đề ra, ngày 01/9/2016, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU về một số giải pháp cơ bản cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2021. Nghị quyết khẳng định lại quan điểm: “Cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ trọng tâm có tính chiến lược của tỉnh, chú trọng thu hút, phát triển doanh nghiệp lớn, có uy tín, năng lực và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, không ảnh hưởng môi trường; khuyến khích đổi mới công nghệ sản xuất, kinh doanh, đáp ứng hội nhập quốc tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển nhanh, bền vững”[4]. Nghị quyết đề ra các nhóm giải pháp chủ yếu:

- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội gắn với nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng và vận hành hiệu quả chính quyền điện từ, trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin.

- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện về bồi thường giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp triển khai hoạt động.

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

- Xây dựng cơ chế trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền; bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

- Tập trung thu hút dự án đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có; ưu tiên các dự án có quy mô lớn, công nghệ cao. Chủ động quỹ đất để xây dựng các khu công nghiệp mới theo yêu cầu của thị trường, phù hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội được duyệt.

Thực hiện chủ trương, nghị quyết đề ra, tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung vào khâu cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục hành chính liên quan đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp theo hướng công khai, rút ngắn thời gian giải quyết, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, mở rộng đầu tư, kinh doanh; đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế “một cửa, một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính; thành lập Trung tâm hành chính công tỉnh Vĩnh Phúc với mục đích xây dựng một nền hành chính phục vụ chuyên nghiệp, hiện đại và thân thiện, tạo bước đột phá mạnh mẽ về cải cách hành chính; đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin, vận hành phần mềm trung tâm hành chính công, phần mềm dùng chung cho bộ phận một cửa các cấp để giải quyết thủ tục hành chính, phần mềm dịch vụ công mức độ 3, 4; thực hiện tiếp nhận hồ sơ trực tuyến nhằm giải quyết tốt nhu cầu giao dịch của các tổ chức, người dân, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư.

Để tạo lợi thế thu hút đầu tư, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo thành lập Ban Giải phóng mặt bằng và Phát triển quỹ đất, là cơ quan được giao nhiệm vụ giải phóng mặt bằng góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án. Tỉnh đã xây dựng các chính sách hỗ trợ nhà đầu tư trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để tạo mặt bằng sạch cho các nhà đầu tư, đồng thời hỗ trợ người dân mất đất khi thực hiện thu hồi đất để bảo đảm an sinh xã hội và tạo sự đồng thuận của người dân. Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Phúc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo hướng xã hội hóa trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, dịch vụ chất lượng cao, nông nghiệp công nghệ cao nhằm thu hút đầu tư. Ưu tiên các nguồn vốn tập trung để đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào các khu công nghiệp, các dự án đầu tư quy mô lớn, chất lượng cao.

Tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt chú trọng đến hoạt động xúc tiến và hỗ trợ đầu tư, coi đây là “chìa khóa” quan trọng mang tính đột phá, trở thành “điểm sáng” của cả nước. Với phương châm “Các nhà đầu tư ở Vĩnh Phúc là công dân của Vĩnh Phúc, thành công của doanh nghiệp chính là thành công của tỉnh”, UBND tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc (IPA Vinh Phuc) thuộc Văn phòng UBND tỉnh, dưới chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND tỉnh. Các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài thường xuyên nhận được sự hỗ trợ như: cung cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục đầu tư và làm việc trực tiếp với IPA Vinh Phuc bằng 5 ngôn ngữ: Việt, Anh, Nhật, Hàn, Trung. Nhờ thực hiện chăm sóc tốt các nhà đầu tư, nên các doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh, tăng cường mở rộng vốn, qua đó giúp địa phương tiếp tục thu hút các nguồn vốn. Bên cạnh đó, tỉnh Vĩnh Phúc chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường đào tạo nghề và giải quyết việc làm, chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động từ lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).

Nhờ “mạnh tay” cải thiện môi trường đầu tư, Vĩnh Phúc đã thu được thành tựu to lớn. Theo Báo cáo kết quả thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 - 2020 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc (Số 242/BC-SKHĐT, ngày 30/6/2020), từ năm 2011 đến năm 2020, Vĩnh Phúc thu hút được 383 dự án FDI mới, điều chỉnh tăng vốn 279 lượt dự án, với tổng vốn đăng ký mới và điều chỉnh tăng thêm là 4,486 tỷ USD; cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 396 dự án, điều chỉnh tăng vốn 108 lượt dự án DDI, với tổng vốn cấp mới và điều chỉnh tăng thêm là 81.450 tỷ đồng. Trong đó, riêng giai đoạn 2015 - 2020 thu hút được 3,12 tỷ USD vốn đầu tư các dự án FDI, trên 60.000 tỷ đồng vốn đầu tư các dự án DDI, cao gấp hơn 4 lần về thu hút vốn DDI và cao gấp 2,1 lần về thu hút vốn FDI so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra. Lũy kế đến hết năm 2020, trên địa bàn tỉnh có 1.145 dự án đầu tư, gồm 447 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 6,039 tỷ USD; 796 dự án DDI, tổng vốn đăng ký trên 96.560 tỷ đồng. Các dự án đầu tư FDI đến từ 18 quốc gia, vùng lãnh thổ, chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô, xe máy, cơ khí, trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với 207 dự án, tổng vốn đầu tư 2,207 tỷ USD. Tiếp đến là Nhật Bản 47 dự án, tổng vốn đầu tư 1,169 tỷ đồng; Đài Loan 37 dự án, vốn đầu tư trên 943 triệu USD. Đối với các dự án DDI, giai đoạn 2011 - 2020, Vĩnh Phúc thu hút được nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ.

Đầu tư trực tiếp đã đóng góp đặc biệt quan trọng vào nguồn vốn đầu tư xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc. Giai đoạn 2011 - 2020, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án FDI đạt 2,66 tỷ USD và vốn thực hiện của các dự án DDI đạt 27.122,6 tỷ đồng chiếm 32% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh (261,56 nghìn tỷ đồng). Tỷ lệ giá trị sản xuất công nghiệp đóng góp từ các dự án đầu tư trực tiếp khoảng trên 75% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh, trong đó lĩnh vực FDI đóng góp khoảng 56 - 70%. Đóng góp của các dự án đầu tư trực tiếp cho ngân sách nhà nước chiếm khoảng trên 70%, trong đó FDI đóng góp trên 65% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Năm 2019, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 35.069 tỷ đồng, trong đó đóng góp từ các dự án FDI là 65,5%. Các dự án đầu tư trực tiếp đã giải quyết việc làm cho khoảng 137 nghìn lao động trực tiếp, riêng các doanh nghiệp FDI giải quyết việc làm cho khoảng 120 nghìn lao động.

Những kết quả đạt được trong thu hút đầu tư trực tiếp góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tạo nhiều việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại của Vĩnh Phúc.

2. Một số kinh nghiệm rút ra

Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng môi trường đầu tư, trên cơ sở đó đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng môi trường đầu tư phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương.

Trong giai đoạn 2010 đến năm 2020, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về xây dựng môi trường đầu tư, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã ban hành 5 nghị quyết, 3 kết luận và một số chỉ thị, chương trình hành động; Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh ban hành 9 nghị quyết, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, hấp dẫn các nhà đầu tư. UBND tỉnh đã ban hành Đề án cải thiện, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2013 - 2015 và Đề án cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh giai đoạn 2016 - 2020. Để những chủ trương, chính sách trên được triển khai đạt hiệu quả cao, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc yêu cầu các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện phải gắn với trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng môi trường đầu tư, chịu trách nhiệm cải thiện các chỉ số liên quan đến ngành mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường tuyên truyền chủ trương, chính sách của tỉnh về môi trường đầu tư, kinh doanh phát triển doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh và đồng hành cùng doanh nghiệp. Với chủ trương đúng đắn, sáng tạo, sự triển khai tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương, môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh không ngừng được cải thiện. Năm 2012, Vĩnh Phúc đứng thứ 43 toàn quốc về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (CPI); năm 2019 vươn lên đứng thứ 17. Vĩnh Phúc nhiều năm liền trở thành một trong những tỉnh có chất lượng điều hành tốt.

Hai là, thường xuyên đổi mới nâng cao chất lượng công tác xúc tiến, vận động thu hút đầu tư; chú trọng xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, hấp dẫn.

Công tác xúc tiến, vận động thu hút đầu tư là những yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của thu hút đầu tư. Tỉnh chỉ đạo thường xuyên đổi mới cả về nội dung, phương thức thực hiện. Trên cơ sở định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra, tỉnh chủ động xây dựng kế hoạch xúc tiến đầu tư ngắn hạn và trung hạn giao các cơ quan tổ chức thực hiện. Chú trọng các hoạt động xúc tiến đầu tư ở ngoài tỉnh, ở nước ngoài nhưng đặc biệt quan tâm đến các hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ, nhất là chỉ đạo tháo gỡ kịp thời khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư, doanh nghiệp để chính các nhà đầu tư, doanh nghiệp giúp tỉnh kêu gọi, thu hút đầu tư. Để phát huy sức mạnh tổng hợp cho công tác xúc tiến và hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, nòng cốt là các sở ngành liên quan và UBND các cấp. Tỉnh ủy, UBDN tỉnh Vĩnh Phúc đã chỉ đạo tập trung đẩy mạnh tuyên truyền về môi trường, cơ hội đầu tư tại địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài nắm bắt đầy đủ, kịp thời các thông tin cần thiết về môi trường đầu tư để tiến hành tiếp xúc trao đổi về dự án đầu tư diễn ra được nhanh chóng. Xây dựng và cập nhật thường xuyên tài liệu phục vụ cho công tác xúc tiến đầu tư. Giới thiệu, tuyên truyền quảng bá hình ảnh, môi trường đầu tư trên các phương tiện thông tin truyền thông của Trung ương và của tỉnh: báo chí, truyền hình, mạng internet. Đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư trên các diễn đàn trong nước, nước ngoài dưới các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Tích cực tham gia các đoàn vận động đầu tư do Trung ương, các bộ, ngành tổ chức, chủ động phối hợp lồng ghép các hoạt động xúc tiến đầu tư của tỉnh với chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng môi trường đầu tư.

Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng môi trường đầu tư, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực. Đảng bộ tỉnh xác định: “Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, là nhân tố quyết định sự thành công trong việc đưa Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI”[5]. HĐND, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm cụ thể hóa chủ trương của Tỉnh ủy. Theo đó, tỉnh tập trung vào các nhóm giải pháp nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Tăng cường việc phân cấp quản lý, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở đào tạo, nâng cao chất lượng hoạt động công tác thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về nhu cầu sử dụng lao đông trong tỉnh. Tập trung thu hút mọi nguồn lực, ngân sách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Nâng cao tỷ lệ lao động có đào tạo chuyên môn kỹ thuật, dạy nghề gắn với giải quyết việc làm. Gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động các doanh nghiệp tham gia dạy nghề; nâng cao chất lượng đào tạo lao động nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Thường xuyên theo dõi, đánh giá những thay đổi về việc làm và ngành nghề đào tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 để kịp thời điều chỉnh công tác giải quyết việc làm, giáo dục nghề nghiệp theo sự thay đổi, biến động của thị trường lao động. Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch lao động sang các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao, trong đó ưu tiên tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực và phát triển doanh nghiệp ở khu vực nông thôn nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động. Mặt khác, tỉnh tập trung đầu tư theo chiều sâu, có trọng điểm đi đôi với việc thực hiện xã hội hóa phát triển nguồn nhân lực. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nhằm huy động được hết các nguồn lực cả trí tuệ cũng như vật chất. Khuyến khích, tạo mọi điều kiện để mở các trường đào tạo nghề mới với đa dạng hoá các loại hình sở hữu về quản lý và loại hình đào tạo vừa giảm nhẹ vốn đầu tư từ ngân sách của tỉnh vừa khuyến khích nâng cao chất lượng đào tạo. Quan tâm, tạo điều kiện cho lực lượng lao động có điều kiện làm việc tốt, có nơi cư trú ổn định xung quanh khu công nghiệp để có điều kiện tái sản xuất sức lao động.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền, vai trò của các cấp, các ngành trong xây dựng môi trường đầu tư.

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thường xuyên coi trọng việc nâng cao năng lực hoạch định chủ trương, chính sách; giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; không buông lỏng sự lãnh đạo, song cũng không bao biện làm thay công việc của chính quyền. Tổ chức tốt việc bồi dưỡng kiến thức chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng môi trường đầu tư. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp ủy viên các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng môi trường đầu tư, thu hút đầu tư. Từng cấp ủy xây dựng kế hoạch kiểm tra việc tổ chức thực hiện và sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các kết luận, chỉ thị, chương trình hành động của Tỉnh ủy về xây dựng môi trường đầu tư. Đối với chính quyền các cấp, tỉnh thực hiện kiện toàn, hiện đại hóa bộ máy hành chính theo hướng khắc phục sự chồng chéo, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính (trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính và cải cách công chức, công vụ), kiên quyết loại bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin. Tăng cường phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát; đẩy nhanh tiến độ ra quyết định của cơ quan Nhà nước, công khai quy trình tác nghiệp, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp. Khẩn trương xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, hiện đại, loại bỏ khỏi bộ máy những công chức không đủ năng lực, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân và các doanh nghiệp. Đối với các sở, ban, ngành, tỉnh chủ trương thực hiện đồng bộ các giải pháp gắn với trách nhiệm của từng sở, ban, ngành trong xây dựng. Văn phòng UBND tỉnh chủ trì phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các Khu công nghiệp thường xuyên theo dõi các chỉ số, đánh giá các chỉ số. Từ đó kịp thời phát hiện những rào cản hạn chế gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đầu tư, phát triển sản xuất.

3. Một số giải pháp cơ bản trong thời gian tới

Một là, đổi mới tư duy, thống nhất trong nhận thức và hành động để triển khai chính sách về xúc tiến, thu hút đầu tư. Theo đó, cần thay đổi nhận thức và cách tiếp cận từ thu hút đầu tư theo hướng vì thành tích tăng trưởng, tăng thu ngân sách trong ngắn hạn sang hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Muốn vậy, tỉnh cần tập trung xúc tiến và thu hút các dự án đầu tư có chọn lọc phù hợp với điều kiện của địa phương cũng như nhu cầu thị trường; kiên trì tìm kiếm để thu hút các nhà đầu tư lớn có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm; các dự án có quy mô lớn, chất lượng, hiệu quả, tạo hiệu ứng tốt cho môi trường đầu tư. Đồng thời, không thu hút đầu tư thuộc các lĩnh vực có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, sử dụng công nghệ lạc hậu, các dự án ảnh hưởng tới thế bố trí quốc phòng an ninh của địa phương và không phù hợp với định hướng chỉ đạo của Trung ương. Tập trung ưu tiên thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, du lịch và dịch vụ. Đối với lĩnh vực công nghiệp, ưu tiên các dự án đầu tư cho công nghiệp phụ trợ phục vụ cho ngành công nghiệp ô tô, xe máy và ngành công nghiệp điện tử, viễn thông; thu hút các dự án sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, như: sản xuất, lắp ráp các thiết bị tin học, điện tử, sản xuất phần mềm, tự động hóa... để hình thành trung tâm kết nối phá triển công nghiệp hỗ trợ. Đối với lĩnh vực dịch vụ: tập trung thu hút các dự án đầu tư vào ngành dịch vụ tỉnh quan tâm như giáo dục, đào tạo nghề, y tế, vui chơi giải trí, du lịch.

Hai là, hoàn thiện khung pháp luật và chính sách về thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Chiến lược thu hút sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp phải được xây dựng trên căn cứ chiến lược chung của cả nước, đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Xác định đầu tư trực tiếp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, đóng góp cho thu ngân sách tỉnh, cải thiện các quan hệ đối ngoại. Hoạt động đầu tư phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và tín hiệu thị trường. Trên cơ sở đáp ứng đúng định hướng, mục tiêu đề ra, tỉnh cần tích cực rà soát các quy định, cơ chế, chính sách, ưu đãi hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh để cập nhật bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với quy định mới; xây dựng bộ tiêu chí để lựa chọn dự án đầu tư, nhà đầu tư. Đẩy mạnh phân công, phân cấp, ủy quyền và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư. Quy định chế độ kiểm tra, thanh tra, giám sát gắn với trách nhiệm của UBND các cấp và người đứng đầu trong công tác thu hút, quản lý dự án đầu tư. Xử lý nghiêm các nhà đầu tư, doanh nghiệp có hành vi vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với các dự án đầu tư chậm triển khai theo tiến độ cần đôn đốc và giám sát thường xuyên; giải quyết các vướng mắc, khó khăn gây ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án của nhà đầu tư.

Ba là, huy động các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ thu hút đầu tư. Trên cơ sở chủ trương, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở ngành, địa phương rà soát quy hoạch nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ thu hút đầu tư giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, bảo đảm nguồn lực, tính khả thi và hiệu quả các công trình, dự án kết cấu hạ tầng. Trong đó, tập trung đầu tư có trọng điểm vào một số lĩnh vực thiết yếu cơ bản. Về hạ tầng giao thông, hoàn thiện các đường vành đai, các trục hướng tâm, các tuyến đường nội thị chính cấp đô thị, cấp khu vực, đường giao thông có tính kết nối và có khả năng thúc đẩy phát triển đô thị, thu hút đầu tư công nghiệp, dịch vụ, du lịch và nông nghiệp công nghệ cao. Các tuyến đường giao thông đầu tư mới thuộc hạ tầng kỹ thuật đô thị Vĩnh Phúc phải tạo động lực thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cân đối được vốn. Về phát triển các khu, cụm công nghiệp: Tiếp tục nghiên cứu để xuất bổ sung và mở rộng các khu, cụm công nghiệp đã có để phục vụ phát triển giai đoạn tiếp theo; đồng thời tập trung nguồn vốn ngân sách để thực hiện bồi thường - giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch, thu hút các nhà đầu tư đủ năng lực đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới được quy hoạch. Kết hợp với đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án nhà ở xã hội cho công nhân, chuyên gia, người lao động trong các Khu công nghiệp trên địa bàn đã được chấp thuận đầu tư. Về hạ tầng kinh tế - xã hội: Hỗ trợ các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các dự án khu du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao, quy mô lớn, kết hợp với xây dựng các trung tâm thương mại, phát triển hệ sinh thái hỗ trợ.

Xây dựng môi trường đầu tư là một nội dung quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của môi trường đầu tư, học hỏi và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn; đồng thời quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng, giai đoạn từ năm 2010 đến 2020, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách phù hợp nhằm xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, hấp dẫn các nhà đầu tư. Vĩnh Phúc đã thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, số lượng dự án, vốn đầu tư vào tỉnh ngày càng gia tăng. Những kết đạt được trong thu hút đầu tư đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh những năm qua, tạo đà cho bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.



* Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

** Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.

[1] Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV, tr.51.

[2] Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV, tr.64.

[3] Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI, tr. 55.

[4] Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2016), Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số giải pháp cơ bản cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2021, số 01-NQ/TU, tr. 2.

[5] Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2011), Kết luận số 04-KL/TU ngày 03/6/2011 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 25/02/2008 của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, tr. 3.

TS Trần Hữu Huy* - CN Trịnh Ngọc Bình**

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều