Khoa học và công nghệ cần được xem là mũi nhọn đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững

Thực tiễn phát triển của nhân loại cho thấy, quốc gia nào trên thế giới coi trọng và tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ thì đều đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội và không ngừng nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Hiện nay, trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới, khoa học và công nghệ cần được xem là mũi nhọn đột phá chiến lược, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tham quan các gian hàng tại Triển lãm quốc tế Đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021 và khởi công Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia, ngày 9-1-2021 _Ảnh: TTXVN
1 - Trong lịch sử, các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến quá trình phát triển của xã hội, đưa loài người vượt qua nhiều giới hạn, thách thức về tự nhiên, kinh tế - xã hội, quyết định vị thế các quốc gia trên thế giới.

Thực tiễn cho thấy, những phát minh, sáng chế khoa học và công nghệ trong nhiều lĩnh vực, như điện, năng lượng, vật liệu mới, năng lượng nguyên tử... đã được con người ứng dụng từ lâu, góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội. Nhiều hợp chất mới trong lĩnh vực hóa học với hoạt tính sinh học, tính chất đặc thù là nguyên liệu chế tạo các loại thuốc kháng sinh, vắc xin... được sử dụng để chữa trị nhiều loại bệnh, giúp con người vượt qua nhiều đại dịch. Trong lĩnh vực cơ học, chế tạo các thế hệ động cơ, như hơi nước, đốt trong, động cơ điện, phản lực, động cơ lai... đã giải quyết được vấn đề về di chuyển, vận chuyển của con người. Sự phát triển của viễn thông, phát thanh, truyền hình, máy vi tính đã làm thay đổi cơ bản đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế và tinh thần của con người, tăng cường và mở rộng cơ hội giao lưu, hợp tác văn hóa, kinh tế,... của các cộng đồng, quốc gia - dân tộc trên thế giới. Đặc biệt tới cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, in-tơ-nét, công nghệ sinh học, y học, rô-bốt thế hệ mới, công nghệ phân tích... đã đưa con người bước sang kỷ nguyên mới, mọi giới hạn khó khăn tưởng như khó có thể vượt qua đã được con người chinh phục nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ. Sự kết nối các siêu máy tính qua hệ thống mạng in-tơ-nét giúp triển khai các mô hình tính toán, mô phỏng, dự báo với hàng tỷ phép tính. Công nghệ sinh học phân tử, di truyền, liên kết sinh học đã đi sâu tới từng phần tử nhỏ nhất cấu thành tế bào, can thiệp điều chỉnh từng bộ phận của cơ thể, điều chỉnh một cơ thể sống, hay cả quần thể, quần xã, cánh đồng, trang trại... Rô-bốt thế hệ mới giúp con người thực hiện nhiều việc ở sâu trong lòng đại dương, trong lòng Trái đất, ngoài không gian vũ trụ, thậm chí trên cả các hành tinh xa xôi khác.

Từ việc nhận thức rõ vai trò to lớn của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã khẳng định, các chiến lược khoa học và công nghệ phải nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới; sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước; phải phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục, văn hóa và nâng cao dân trí.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, ngày 24-12-1996, “Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” chỉ rõ, những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. Đồng thời, Nghị quyết cũng đã vạch ra phương hướng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ; cùng với phát triển giáo dục, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng khẳng định, khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm xuyên suốt, coi phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước, tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ như là những giải pháp chiến lược mang tính đột phá làm chuyển động tình hình kinh tế - xã hội.

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 31-10-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” khẳng định, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước cùng tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định những nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đồng thời có những bổ sung, phát triển quan trọng, nhấn mạnh rõ hơn khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới.

 Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ và các đại biểu tham quan dây chuyền sản xuất tại Nhà máy Hanwha Aero Engines (Khu công nghệ cao Hoà Lạc) _Ảnh: TTXVN
2 - Trong quá trình đổi mới đất nước, khoa học và công nghệ đã có nhiều đóng góp quan trọng. Ở giai đoạn 1991 - 2000, nền kinh tế nước ta có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa - xã hội không ngừng tiến bộ; an ninh, chính trị ổn định tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Khoa học và công nghệ giai đoạn này có những nội dung đổi mới quan trọng, góp phần vào sự thành công của đất nước, như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bước đầu được xây dựng, vận hành để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua nhập công nghệ, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ; đổi mới công nghệ lạc hậu của doanh nghiệp nội địa; công nghệ bắt đầu được chú trọng ứng dụng trong công tác quản lý. Giai đoạn này khoa học và công nghệ triển khai các nội dung, như nghiên cứu khoa học (triển khai các chương trình, dự án nghiên cứu khoa học trọng điểm của Nhà nước, mở rộng phạm vi nghiên cứu khoa học đến cấp địa phương); phát triển công nghệ (phát triển các công nghệ trọng điểm của Nhà nước); bảo vệ môi trường (ban hành các quy phạm, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, triển khai nội dung bảo vệ môi trường của các dự án phát triển kinh tế - xã hội); phát triển tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; bắt đầu tiếp cận sở hữu trí tuệ; đổi mới quản lý, mở rộng thu hút nguồn lực cho sự phát triển khoa học, công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ...

Ở giai đoạn 2001 - 2010, nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu tổng quát chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình. Đây là bước chuyển vị thế quan trọng của đất nước ta. GDP bình quân đầu người đã đạt hơn 42% mức trung bình và đứng thứ 7/11 nước Đông Nam Á (tăng 10 % so với giai đoạn trước); GDP năm 2010 gấp đôi năm 2000. Mức sống và chất lượng cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng lên rõ rệt. Kết cấu hạ tầng từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh. Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ ở giai đoạn này được hoàn thiện hơn, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên được nâng cao về chất lượng theo chuẩn mực quốc tế; khoa học và công nghệ từng bước tiếp cận được trình độ công nghệ tiên tiến khu vực, giải quyết được nhiều nhiệm vụ quan trọng quốc gia; tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Cơ chế tổ chức, quản lý khoa học và công nghệ được đổi mới, cơ chế tài chính cho khoa học và công nghệ bước đầu hình thành; phát triển tổ chức cầu nối, gắn kết hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất, kinh doanh. Hợp tác quốc tế trong khoa học và công nghệ được mở rộng và tăng cường.

Ở giai đoạn 2010 - 2020, Chiến lược phát triển quốc gia đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng đạt gần 3%, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung cả giai đoạn 2011 - 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp 2,95 lần, từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 343 tỷ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 3.521 USD năm 2020. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, mô hình tăng trưởng được đổi mới phù hợp với xu thế thời đại. Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển biến tích cực hướng vào phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, miền, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực. Sản xuất nông nghiệp được tập trung phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại, giá trị gia tăng cao và bền vững. Hình thành nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, đẩy mạnh phát triển liên kết sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ được chú trọng, từng bước chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Chất lượng nhiều loại sản phẩm đáp ứng yêu cầu an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Hình thức kinh tế hợp tác và doanh nghiệp nông nghiệp tăng nhanh. Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện.

 Các nhà khoa học trẻ của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tham gia nghiên cứu, chế tạo vệ tinh MicroDragon _Ảnh: vnsc.org.vn
Năm 2019, doanh nghiệp công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 13% trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo. Giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao tăng từ 26% năm 2010 lên trên 40% năm 2019. Một số ngành công nghiệp hỗ trợ được hình thành và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp tăng từ vị trí 58 vào năm 2009 lên thứ 42 vào năm 2019. Vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam được cải thiện đáng kể. Phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, nhất là nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường. Tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Việc nghiên cứu, ứng dụng, nâng cao năng lực, trình độ khoa học, công nghệ được chú trọng. Nước ta đủ khả năng thiết kế, chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài đã đầu tư quy mô lớn để ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất hàng hóa công nghệ phân phối trên toàn thế giới. Hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động. Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm, như công nghệ sinh học, hóa dầu, vật liệu, tự động hóa, na-nô, công nghệ tính toán, y học... được tăng cường. Khởi động và phát triển hệ tri thức Việt số hóa. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có nhiều chuyển biến tích cực. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển mạnh hơn, đã có 15 sàn giao dịch, 50 vườn ươm công nghệ. Công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ được tăng cường, số lượng văn bằng sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp tăng nhanh. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia được hình thành. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển khá. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2019 ở bậc đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Ở giai đoạn này, khoa học và công nghệ được đánh giá là đòn bẩy tham gia vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong xu thế hội nhập. Khoa học và công nghệ là chìa khóa cho việc thực hiện rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như cho việc hội nhập thành công, bắt kịp với các quốc gia khác trên thế giới. Đó cũng là yếu tố quyết định trong chuyển dịch nền kinh tế sang nền kinh tế tri thức, mở rộng chủ thể khoa học và công nghệ từ viện, trường sang doanh nghiệp... Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 đã tạo bước đột phá cơ bản trong hoạt động khoa học và công nghệ, đó là đổi mới về tổ chức khoa học và công nghệ; đột phá về chính sách sử dụng và đãi ngộ nhân lực khoa học và công nghệ; đổi mới về phương thức đầu tư cho khoa học và công nghệ; đổi mới ứng dụng kết quả nghiên cứu và phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ; quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính cho nghiên cứu khoa học và công nghệ; hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; vinh danh các nhà khoa học, lấy ngày 18-5 hằng năm là Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hệ thống văn bản của Đảng và quy phạm pháp luật về khoa học và công nghệ đã cơ bản vận hành ngành khoa học và công nghệ nước nhà phát triển nhanh. Bên cạnh đó, trước yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, nhiều vấn đề gắn kết với khoa học và công nghệ cũng được nghiên cứu và triển khai, như hệ sinh thái khởi nghiệp, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển vùng và liên vùng, kinh tế số, chuyển đổi số quốc gia, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, Chính phủ kiến tạo,...

3 - Hiện nay, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang mang đến nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho sự phát triển bền vững của nước ta. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII nhận định, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội; thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số. Thực tiễn đó đòi hỏi nước ta cần đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khoa học và công nghệ cần được xem là mũi nhọn đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Do đó, ngành khoa học và công nghệ phải được đổi mới với một số định hướng phát triển trọng tâm sau:

Một là, tạo dựng hệ sinh thái khoa học và công nghệ trong mọi cấu trúc, trụ cột phát triển. Theo cấu trúc chiều ngang, mọi thành phần, chủ thể kinh tế, thành phần cấu trúc cấu thành xã hội phải coi khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực để tạo đà phát triển của chính tổ chức, cá nhân đó. Sự phát triển của mỗi thành phần, chủ thể trong hệ thống là động lực phát triển thành phần, chủ thể kinh tế còn lại. Phát triển đồng đều các lĩnh vực khoa học và công nghệ trong hệ thống tổng thể. Theo cấu trúc chiều dọc, trong một thành phần, chủ thể kinh tế, khoa học và công nghệ phải đóng vai trò là “sợi dây” liên kết tạo ra mỗi quan hệ hữu cơ, chuỗi giá trị.

Hai là, coi trọng công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, bảo đảm đầy đủ về độ tuổi, trình độ cán bộ khoa học và công nghệ đáp ứng cho mọi ngành, lĩnh vực và giai đoạn phát triển của xã hội. Khơi dậy và thúc đẩy hoài bão, ước mơ, khát vọng đổi mới sáng tạo cho mọi cá nhân trong quá trình nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ. Hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm đời sống cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học.

Coi trọng công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, bảo đảm đầy đủ về độ tuổi, trình độ cán bộ khoa học và công nghệ đáp ứng cho mọi ngành, lĩnh vực và giai đoạn phát triển của xã hội (Trong ảnh: Các sinh viên thi thực hành nghề điện công nghiệp tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội) _Ảnh: TTXVN
Ba là, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và các cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ, góp phần tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi cho sự phát triển khoa học và công nghệ. Cơ chế tài chính phải minh bạch, chặt chẽ, phù hợp với thời kỳ mới, quy định về sở hữu trí tuệ cần được triển khai mạnh mẽ và nghiêm minh hơn, góp phần khuyến khích và thúc đẩy mọi chủ thể nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh đầu tư vào khoa học và công nghệ.

Bốn là, xác định, lựa chọn một số ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ cốt lõi, trụ cột, thiết yếu, mũi nhọn để đầu tư phát triển theo tiêu chuẩn hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, coi đào tạo khoa học và công nghệ là thị trường thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tiến tới làm chủ nhiều công nghệ quan trọng. Tập trung phát triển các lĩnh vực khoa học và công nghệ là trụ cột của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (gồm công nghệ số, công nghệ sinh học, vật lý, vật liệu tiên tiến, năng lượng và môi trường).

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, điều tra cơ bản, tạo môi trường để phối hợp khoa học và công nghệ đa ngành, liên ngành trong tham gia tư vấn xây dựng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tư vấn thẩm định đối với các nhiệm vụ lớn của Nhà nước. Tăng cường vai trò trọng tài, tư vấn độc lập về khoa học và công nghệ của tổ chức khoa học và công nghệ trong các vấn đề kinh tế - xã hội. Xây dựng chiến lược quy hoạch ngành khoa học và công nghệ giai đoạn 2020 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2040 khả thi, phù hợp (có thành phần hạt nhân, thành phần cốt yếu và thành phần phụ).

Sáu là, đẩy mạnh công tác truyền thông khoa học và công nghệ. Lan tỏa và phát huy tinh thần nghiên cứu, học tập ứng dụng khoa học và công nghệ trong toàn bộ hệ thống chính trị, đoàn thể quần chúng trong mọi hoạt động xã hội. Tạo môi trường cạnh tranh trong hoạt động khoa học và công nghệ, tạo sự linh hoạt trong chuyển đổi nghề nghiệp từ nghiên cứu khoa học và công nghệ sang các ngành, nghề khác. Khen thưởng kịp thời người có phát minh, sáng kiến, thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đất nước./.

Theo GIÁO SƯ, VIỆN SĨ. CHÂU VĂN MINH/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều