Xã hội hóa dịch vụ công tiếp cận dưới góc độ sở hữu

Một trong những mục tiêu cải cách được các nhà nước xác định rõ là chuyển một phần khá lớn chức năng quản lý xã hội của chính phủ sang cho các chủ thể khác và xã hội hóa dịch vụ công là một xu thế lớn trong trào lưu cải cách nhà nước hiện nay ở phần lớn các nước trên thế giới. Việc nghiên cứu, phân tích quá trình xã hội hóa dịch vụ công tiếp cận dưới góc độ sở hữu giúp thấy rõ hơn bản chất của xu hướng này, đồng thời, qua đó có những định hướng chính sách phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng thường trực Bộ Y tế Nguyễn Thành Long, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng và đại biểu thực hiện nghi thức bấm nút hoàn thành cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 của Bộ Y tế. (Ảnh: M.Quyết) 
Xã hội hóa dịch vụ công - xu hướng tất yếu

Trước đây, dịch vụ công do nhà nước cung cấp, nhưng theo quá trình phát triển, các nhà nước không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các tổ chức và công dân, do vậy cần thiết phải tiến hành xã hội hóa.

Các nhà nước tiên tiến hiện nay đang tìm cách sử dụng tối đa cơ chế thị trường trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công. Phần lớn dịch vụ công được toàn xã hội tiến hành, nhà nước chỉ giữ lại những dịch vụ cần thiết nhất. Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong bảo đảm cung cấp dịch vụ công nhưng không nhất thiết phải là người trực tiếp cung cấp tất cả các dịch vụ đó. Vai trò của nhà nước cần thể hiện rõ hơn trong đẩy mạnh quản lý cung ứng dịch vụ công bằng luật pháp, chính sách và các biện pháp mang tính hỗ trợ, kích thích.

Xã hội hóa dịch vụ công mang đến “lợi ích kép” cho cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Nhà nước giảm được gánh nặng, tập trung hơn vào công tác quản lý vĩ mô, từ đó tạo điều kiện để khu vực tư nhân có cơ hội đầu tư và cạnh tranh phát triển. Nhiều nhà cung ứng dịch vụ công sẽ tạo ra sự cạnh tranh nên dịch vụ cung cấp được rẻ hơn, tốt hơn; mặt khác, bộ máy nhà nước cũng trở nên gọn nhẹ và tiết kiệm hơn.

Tại Việt Nam, xã hội hóa được hiểu là chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho các khu vực ngoài nhà nước; huy động đóng góp và động viên sự tham gia rộng rãi của công dân và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công và Nhà nước là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm đáp ứng nhu cầu của nhân dân ở mức cao nhất với bất kỳ hình thức cung ứng nào.

Xã hội hóa dịch vụ công là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công, vì từ thực tế có nhiều tổ chức công hoạt động kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực ngân sách. Việc xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam mang lại các lợi ích sau:

Thứ nhất, việc chuyển giao một số dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước sẽ tạo môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Qua đó, tổ chức ngoài nhà nước có điều kiện để khẳng định chính mình, đáp ứng nhu cầu tốt hơn và ngày càng cao của công dân. Các tổ chức này luôn phải đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, có nhiều dịch vụ công Nhà nước làm được, nhưng nếu chuyển giao cho tư nhân sẽ làm tốt hơn, tốc độ nhanh, chất lượng cao, đội ngũ nhân viên làm việc nhiệt tình và thuận lợi hơn cho người thụ hưởng dịch vụ.

Thứ ba, xã hội hóa dịch vụ công nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội đáp ứng dịch vụ cho công dân. Tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động này, phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân..., nhờ đó, đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Ngoài ra, còn huy động, động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người dân cho hoạt động cung ứng dịch vụ công của Nhà nước; làm giảm gánh nặng ngân sách nhà nước để tập trung nguồn lực vào những nhiệm vụ trọng tâm khác của đất nước.

Thứ tư, xã hội hóa dịch vụ công trong điều kiện phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng cùng với sự phát triển cơ chế thị trường là một giải pháp cần thiết để góp phần tạo ra sự công bằng tương đối trong tiêu dùng các dịch vụ công. Điều đó có nghĩa là những ai tiêu dùng nhiều dịch vụ công thì phải trả tiền nhiều hơn. Riêng trong trường hợp cung cấp các dịch vụ công tối cần thiết cho những người thuộc diện khó khăn, nghèo đói hoặc là đối tượng chính sách, Nhà nước cần có những quy định ưu đãi hoặc hỗ trợ phù hợp để bảo đảm công bằng xã hội, giảm bớt sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo.

Có nhiều cách tiếp cận khi nghiên cứu quá trình xã hội hóa dịch vụ công. Tiếp cận dưới góc độ sở hữu có thể phân loại như sau:

Theo tính chất xã hội hóa: 1- Sự chuyển giao từ nhà nước sang tư nhân, xã hội (để khắc phục độc quyền nhà nước); 2- Sự chuyển giao từ tư nhân sang tập thể, cộng đồng, xã hội (để khắc phục độc quyền tư nhân); 3- Sự chuyển giao từ tư nhân sang nhà nước (chính là quốc hữu hóa để chống độc quyền quyền tư nhân).

Theo mức độ: 1- Xã hội hóa toàn bộ: Cả quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt; tức là chủ sở hữu từ bỏ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt (hình thành sở hữu xã hội như các quỹ phi lợi nhuận, đại học phi lợi nhuận mà chủ sở hữu đã từ bỏ tất cả các quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng). 2- Xã hội một cấu phần, công đoạn của sở hữu, bao gồm:

- Xã hội hóa cấu phần quyền sử dụng dịch vụ công (như sở hữu tư nhân nhưng nhà nước thuê sử dụng dưới hình thức “chiếm hữu tư, định đoạt tư, sử dụng công”; hoặc sở hữu nhà nước nhưng tư nhân thuê sử dụng dưới hình thức “chiếm hữu công, định đoạt công, sử dụng tư”).

- Xã hội hóa cấu phần quyền định đoạt dịch vụ công (có thể là chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, quyền tiêu hủy, như cổ phần hóa hình thành sở hữu hỗn hợp là chuyển giao quyền sở hữu cho xã hội, tư nhân hóa là chuyển giao quyền sở hữu từ nhà nước sang tư nhân, quốc hữu hóa là chuyển giao quyền sở hữu từ tư nhân sang nhà nước; tài trợ tiền cho lập một quỹ phi lợi nhuận, thừa kế tài sản cho tổ chức phi lợi nhuận,… nhưng không can thiệp vào quản lý và hoạt động của quỹ là từ bỏ quyền sở hữu).

- Xã hội hóa cấu phần quyền chiếm hữu dịch vụ công (chủ sở hữu không từ bỏ quyền sở hữu nhưng ủy quyền cho tư nhân hoặc xã hội quyền vận hành, quản lý dịch vụ công, phân biệt với từ bỏ quyền chiếm hữu là tư nhân hóa, như giao quyền tự chủ toàn phần cho các đơn vị sự nghiệp công lập).

Một số nhận xét tiếp cận theo tính chất xã hội hóa

Sự chuyển giao từ nhà nước sang tư nhân, xã hội 

Để khắc phục độc quyền nhà nước, nhiều quốc gia đã chuyển một số lĩnh vực dịch vụ công từ nhà nước sang phía tư nhân, xã hội, thông qua các hình thức chủ yếu: 1- Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ công cho tư nhân hoặc một tập thể. 2- Nhà nước bán một phần cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ công ra ngoài xã hội.

Mục tiêu của chuyển đổi là nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của đơn vị cung cấp dịch vụ công và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, lộ trình, phạm vi và kết quả cổ phần hóa giữa các quốc gia là khác nhau.

Việc cổ phần hóa các đơn vị cung cấp dịch vụ công trên thế giới được triển khai mạnh mẽ từ những năm 1980, đây là một hình thức áp dụng  học thuyết “Quản trị công mới” và “Dịch vụ công kiểu mới”. Phương thức này chuyển vị thế của các cơ quan hành chính thành “doanh nghiệp cung cấp dịch vụ”, chuyển người dân thành “khách hàng” và thương mại hóa các dịch vụ công trên nguyên tắc giá dịch vụ công tính đúng, tính đủ các chi phí.

Ở Mỹ, việc cổ phần hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập được thực hiện từ những năm 1970, điển hình như việc cổ phần hóa Quỹ Thế chấp nhà ở quốc gia liên bang (FNMA). Trong gian đoạn 1980 - 1990, việc cổ phần hóa ở Mỹ được đẩy mạnh đối với một số lĩnh vực, như: đường sắt, điện, giáo dục - đào tạo, trông coi tù nhân. Tiếp đó, Mỹ thực hiện cổ phần hóa các lĩnh vực, như: xây dựng và vận hành cầu, đường, cảng, đường ống dẫn dầu/ khí, các dịch vụ mang tính chất quản lý nhà nước, như cảnh sát, phòng cháy, chữa cháy, thu và xử lý nước thải, xử lý rác, sở thú… Quá trình cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập ở Mỹ đã góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; nâng cao hiệu quả và năng suất hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ công; giảm sự can thiệp chính trị trong quá trình vận hành và cung cấp các dịch vụ này.

Trong những năm 1970, nền kinh tế Anh gặp nhiều khó khăn, lạm phát hai con số, các doanh nghiệp nhà nước làm ăn trì trệ, các nghiệp đoàn liên tục gây áp lực buộc Chính phủ Anh phải tăng lương. Năm 1979, Thủ tướng Magaret Thatcher nhậm chức và việc đầu tiên bà làm là tách yếu tố nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó còn có các biện pháp, như hợp tác công - tư, chia tách các doanh nghiệp nhà nước thành nhiều doanh nghiệp chuyên môn hóa và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhằm giúp các tập đoàn lớn hoạt động hiệu quả hơn.

Việc chuyển giao từ nhà nước sang tư nhân, xã hội đã giúp đạt được những kết quả như sau:

Thứ nhất, cổ phần hóa các đơn vị cung ứng dịch vụ công là giải pháp hữu hiệu để tăng cường hiệu quả hoạt động của các đơn vị này thông qua việc áp dụng phương thức quản trị của doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động và cung cấp dịch vụ. Nhờ đó, các đơn vị sự nghiệp công lập thu hút được các chuyên gia có trình độ cao từ khu vực tư nhân cũng như thu hút thêm nguồn lực từ xã hội để nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công.

Thứ hai, cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đây là bài học thiết thực cho Việt Nam vì hiện nay, Việt Nam còn khoảng gần 58.000 đơn vị sự nghiệp công lập với hơn 2,5 triệu cán bộ, viên chức, do đó, hằng năm phải dành một tỷ trọng ngân sách nhà nước khá lớn cho hoạt động khu vực sự nghiệp công.

Sự chuyển giao từ tư nhân sang tập thể, cộng đồng, xã hội

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tại Anh, Mỹ, dịch vụ cấp nước, kênh đào, khí đốt, xe điện, xa lộ và điện hầu hết đều được cung cấp bởi các công ty tư nhân. Tại Mỹ, ngay từ những năm 1890, các công ty tư nhân đã sở hữu 57% hệ thống cấp nước. Ở Anh, đầu thế kỷ XIX, các công ty tư nhân đã đảm nhiệm cơ bản việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công cho Luân Đôn.

Tuy nhiên, dần dần, người dân trở nên không hài lòng với những nhà cung cấp tư nhân. Mà nguyên nhân chủ yếu ở những khía cạnh sau: Thiếu dịch vụ ở những nơi xa, do chi phí tăng lên, khả năng thu hồi vốn kém; khi không có kiểm soát thì giá cả tăng lên, chất lượng giảm xuống; chí phí phải đội thêm do tham nhũng (các công ty tư nhân phải bỏ vốn vận động cho các nhà chính trị đắc cử, bù lại họ dành cho những hợp đồng béo bở và thẩm định dễ dàng,…).

Do thu nhập của người dân tăng lên dẫn đến nhu cầu về dịch vụ công của họ cũng tăng lên. Trong khi đó, các nhà cung cấp tư nhân nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu gia tăng với quy mô lớn, nhiều dịch vụ cần quản lý theo vùng như các nguồn nước. Tất cả những khía cạnh này dẫn đến một chuyển biến lớn trong cách cung cấp các dịch vụ thiết yếu. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, tư nhân thực hiện cung ứng dịch vụ công đã lợi dụng sự độc quyền để tăng giá hoặc giảm chất lượng dịch vụ.

Khi khu vực sở hữu tư nhân cung cấp dịch vụ công không đáp ứng yêu cầu dẫn đến xu hướng chuyển sang các mô hình mới, trong đó phổ biến là sở hữu cộng đồng. Mô hình này dựa trên các mối quan hệ phối hợp, chia sẻ trách nhiệm trong cung ứng dịch vụ công. Đó là sự kết hợp tính năng động của khu vực tư nhân và các nhóm xã hội cộng đồng (thông qua đại diện của cư dân trong khu vực, các hội nghề nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan phi chính phủ,...). Lúc này, vai trò của nhà nước chỉ quản lý vĩ mô hoặc cho cung cấp các giấy phép.

Sự chuyển giao này còn có ý nghĩa khắc phục tình trạng độc quyền tư nhân trong cung ứng dịch vụ công. Hình thức chủ yếu là thông qua các doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi lợi nhuận (NPO).

Thông qua các doanh nghiệp xã hội, các nhà đầu tư xã hội tìm kiếm tác động xã hội thay cho lợi nhuận tài chính truyền thống. Họ nhiều khi tạo thành mạng lưới liên quốc gia, tập hợp, chia sẻ và hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội trên phạm vi toàn cầu.

Trong 4 thập niên trở lại đây, phong trào doanh nghiệp xã hội đã phát triển ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội quy mô lớn và có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Hiện không có số liệu chính xác bao nhiêu doanh nghiệp xã hội đang hoạt động tại các quốc gia trên thế giới nhưng trong số đó, nhiều doanh nghiệp tham gia trong lĩnh vực dịch vụ công. Nước Anh hiện giữ vai trò tiên phong về doanh nghiệp xã hội trên thế giới. Tính đến năm 2005, nước Anh có 55.000 doanh nghiệp xã hội, với tổng doanh thu đạt 27 tỷ bảng, đóng góp 8,4 tỷ bảng/ năm vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Đến năm 2011, số doanh nghiệp xã hội tại đây tăng lên con số gần 90.000 với tổng doanh thu đạt 70 tỷ bảng, đóng góp cho GDP gần 20 tỷ bảng(1). Đến năm 2016, đóng góp của khu vực này cho GDP nước Anh khoảng 24 tỷ bảng(2).

Đối với các NPO, hoạt động của khu vực này mang tính tự nguyện hay còn gọi là khu vực hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận hay còn gọi là phi lợi nhuận. Thông thường, các NPO có mô hình hoạt động dưới dạng hiệp hội, quỹ tài trợ, công ty trách nhiệm hữu hạn,… được đăng ký theo luật, có tư cách pháp nhân đầy đủ và không bị chi phối bởi cơ quan chủ quản.

Trên thế giới, hoạt động của các NPO phát triển từ những năm 1945, đến nay đã thể hiện vai trò của mình trong xã hội và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy vậy, việc định nghĩa chính xác về tổ chức này vẫn chưa có sự thống nhất. Nhưng có thể hiểu hoạt động “Phi lợi nhuận” không có nghĩa là hoạt động không có lợi nhuận hay không thu phí. Trên thực tế có nhiều tổ chức phi lợi nhuận, nhưng lợi nhuận hằng năm thu được rất lớn, tuy nhiên tất cả lợi nhuận thu được đều được dùng cho các mục đích của tổ chức chứ không chia cho thành viên của tổ chức. Do đó, một tổ chức có được xác định là tổ chức phi lợi nhuận hay không phụ thuộc vào cách họ sử dụng số lợi nhuận thu được, chứ không phải tổ chức đó có tạo ra lợi nhuận hay không.

Tổ chức phi lợi nhuận có hình thức và sở hữu đa dạng như các trường công lập, phòng khám bệnh, các tổ chức cứu tế, bệnh viện,… Đa số các nước phát triển đều dành quyền tự quyết cho các tổ chức trong việc tự nhận và cam kết hoạt động theo hình thức, tổ chức kinh doanh hay phi lợi nhuận. Để đổi lại, nhà nước có các mức độ và hình thức ưu đãi khác nhau nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ công cho xã hội trong những lĩnh vực cần khuyến khích.

Nhiều trường đại học của Mỹ được coi là trường tư, nhưng thực chất là trường không lợi nhuận. Những đại học tư này được tổ chức như những doanh nghiệp phi lợi nhuận, không có cổ phần viên để được chia lợi nhuận. Nó có hội đồng quản trị có nhiệm vụ đề ra phương hướng phát triển trường, bổ nhiệm hiệu trưởng đại học. Hội đồng này gồm những người có uy tín trong xã hội hoặc đóng góp tiền cá nhân rất lớn vào trường. Trường có quỹ bảo trợ (trust fund), tiền lãi từ việc đầu tư quỹ này, cộng với tiền đóng góp của bảo trợ viên và học phí dùng làm chi phí cho hoạt động của trường. Ở những trường đại học phi lợi nhuận này, học phí không hơn 50% chi phí hoạt động của trường(3).

Sự chuyển giao từ tư nhân sang nhà nước

Có nhiều phương thức chuyển giao, nhưng có hai hình thức chủ yếu, đó là: bị cưỡng chế (quốc hữu hóa) và tự nguyện dựa trên cơ sở các giá trị xã hội.

Lý do kinh tế chủ yếu dẫn tới quyết định quốc hữu hóa một số lĩnh vực kinh tế là nhằm chống lại độc quyền tự nhiên. Trong một số ngành, đặc biệt là các lĩnh vực tạo lập kết cấu hạ tầng cho tăng trưởng, việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ sẽ được thực hiện có hiệu quả hơn nếu chỉ có một nhà cung cấp, vì điều này góp phần tận dụng hiệu quả quy mô để tiết kiệm chi phí.

Nhiều nhà kinh tế học đánh giá việc quốc hữu hóa và giao các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực ít sinh lời, nhiều khó khăn và đòi hỏi vốn đầu tư lớn, như lĩnh vực đường sắt, điện khí hóa, cung ứng nước sạch… đã giúp các nước này vượt qua những giai đoạn khó khăn, tạo sức lan tỏa và động lực phát triển cho các lĩnh vực khác, đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế(4).

Bên cạnh đó, nhiều lĩnh vực tiện ích công cộng hoặc tạo lập kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng lợi nhuận thấp, kém hấp dẫn khối tư nhân tham gia nên sự xuất hiện của các doanh nghiệp nhà nước giúp đem lại các lợi ích cộng đồng.

Những năm 1970, chính quyền Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã hành động mạnh tay hơn nhằm bảo đảm hoạt động vận tải đường sắt trên toàn quốc khi Penn Central Railroad - một trong những tập đoàn lớn nhất Mỹ thời bấy giờ, sụp đổ. Chính phủ Mỹ đã thành lập Tập đoàn Vận tải hành khách đường sắt quốc gia Hoa Kỳ (Amtrack) với 100% vốn thuộc chính phủ và thâu tóm toàn bộ các doanh nghiệp đường sắt tư nhân kinh doanh vận chuyển hành khách. Thông qua Amtrack, Chính phủ Mỹ bỏ vốn đầu tư để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt trên toàn lãnh thổ giúp kết nối các khu vực xa xôi, duy trì các tuyến vận chuyển ít sinh lời, hiện đại hóa đội tàu vận chuyển và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Cũng có trường hợp do khủng hoảng, tư nhân không thể bảo đảm cung ứng dịch vụ công như trước, điều này có thể dẫn đến bất ổn xã hội. Trong trường hợp này, nhà nước cũng phải quốc hữu hóa để bảo đảm cung ứng dịch vụ công thông suốt; khi đi vào ổn định thì chuyển giao lại cho tư nhân, ví dụ, trong đợt khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 - 2009 đối với một số lĩnh vực dịch vụ công cộng, hay trong đại dịch COVID-19 đối với một số lĩnh vực y tế, dược phẩm. Trong cuộc chiến chống lại đại dịch COVID-19, cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Joe Biden đã thực hiện một số biện pháp nhằm đặt các đơn vị sản xuất vaccine ngừa COVID-19 và đồ bảo hộ y tế dưới sự điều hành trực tiếp của Chính phủ Mỹ nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia.

Ngoài ra, cũng giống như trong việc chuyển giao từ tư nhân sang tập thể, nhiều cá nhân vì các giá trị xã hội mà họ theo đuổi, nên họ sẵn sàng chuyển giao quyền sở hữu của mình cho nhà nước. Các hình thức như thông qua các quỹ của nhà nước, các hoạt động dịch vụ công thiết yếu trong những tình trạng khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh.

Điểm khác nhau so với hình thức chuyển giao từ tư nhân sang tập thể là, đối với các khoản tài trợ cho tập thể, thường là các doanh nghiệp phi lợi nhuận, thì các tổ chức này phải chứng minh cho các nhà tài trợ thấy rằng, giá trị xã hội đang tạo ra (ở đây là việc cung ứng dịch vụ công) đáp ứng mong đợi và yêu cầu của các nhà tài trợ. Ngược lại, đối với các khoản tài trợ cho chính phủ, các nhà tài trợ thường không có quyền kiểm soát quá trình này. Họ phải tin tưởng vào các cam kết của việc sẽ tạo ra các giá trị công đó.

Có thể thấy các xu hướng xã hội hóa dịch vụ công ngày càng đa dạng và phát triển. Điều này có thể lý giải bởi một số tác nhân chủ yếu sau:

Một là, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kết nối, chia sẻ kiến thức, nguồn lực và nhân rộng các mô hình doanh nghiệp xã hội, các NPO, tổ chức phi chính phủ (NGO) vượt quá giới hạn biên giới quốc gia.

Hai là, các giá trị nhân văn được thức tỉnh mạnh mẽ. Đây là thời kỳ người ta nói đến xã hội hậu công nghiệp và vai trò của các tổ chức xã hội. Hàng loạt cuộc vận động xã hội khác diễn ra, như phong trào bảo vệ môi trường, thương mại công bằng (fair trade), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), mục tiêu thiên niên kỷ, chỉ số phát triển con người.

Ba là, sự xuất hiện của những nhà đầu tư xã hội (social impact investors) tìm kiếm tác động xã hội thay cho lợi nhuận tài chính truyền thống. Họ tạo thành các mạng lưới liên quốc gia, tập hợp, chia sẻ và hỗ trợ các NPO, NGO, quỹ, doanh nghiệp xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điều này đặc biệt có lợi cho các nước đang phát triển, vốn có nhu cầu lớn về vốn và nâng cao năng lực.

Đề xuất một số định hướng cho Việt Nam

Đối với Việt Nam, qua hơn 35 năm đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 159 USD/năm (năm 1985) lên khoảng 3.500 USD/năm (năm 2020). Khi đời sống nâng cao, điều kiện kinh tế cơ bản đầy đủ thì nhu cầu khẳng định các giá trị nhân văn, giá trị xã hội, lý tưởng và mục tiêu cao cả vì cộng đồng được thúc đẩy mạnh mẽ - là một động lực thúc đẩy phát triển các tổ chức, quỹ phi lợi nhuận, doanh nghiệp xã hội hỗ trợ tích cực trong cung ứng dịch vụ công, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

 Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thực hiện sự can thiệp kịp thời, bảo đảm tính công bằng trong cung ứng dịch vụ công (Trong ảnh: Thực nghiệm khoa học tại Đại học Phenikaa - trường do các tập đoàn đa ngành sở hữu phần lớn hoặc toàn bộ cổ phần)_Nguồn: tiasang.com.vn
Tuy nhiên, hiện nay, việc tăng nhanh số lượng các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập cũng dẫn đến nhiều vấn đề nảy sinh trong việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Có nhiều trường hợp vì chú trọng đến lợi nhuận nên có xu hướng đẩy cao giá dịch vụ, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ không tương xứng, cơ chế tài chính thiếu minh bạch. Tất nhiên, tình trạng kém chất lượng trong cung ứng dịch vụ không bắt nguồn từ việc xã hội hóa, song mức độ xã hội hóa ồ ạt, thiếu kiểm soát rõ ràng đã tác động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng dịch vụ…

Để thúc đẩy quá trình xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam diễn ra một cách hiệu quả, cần bảo đảm một số định hướng sau:

Thứ nhất, tận dụng các lợi thế của Việt Nam. Ngoài thị trường vốn rộng lớn bên ngoài, nguồn vốn tư nhân cũng như nguồn lực trong nước cũng có thể huy động vào lĩnh vực dịch vụ công trong bối cảnh nguồn lực của Nhà nước còn hạn hẹp. Khi đã có năng lực và uy tín thực sự về cách tổ chức bài bản, chuyên nghiệp, công khai, minh bạch và chứng tỏ được hiệu quả xã hội thực tế, không ít tổ chức, dự án trong lĩnh vực dịch vụ công trong nước hiện tại thu hút được một số lượng vốn tài trợ rất dồi dào.

Thứ hai, mở rộng các thành phần chủ thể tham gia cung ứng dịch vụ công nhằm phát huy khả năng của toàn xã hội để phát triển mạnh các dịch vụ công cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân.

Do Nhà nước không thể có nguồn lực tài chính đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu ngày càng cao của dịch vụ công, vì thế rất cần sự hỗ trợ từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được chất lượng của dịch vụ cung ứng, vì vậy, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thực hiện sự can thiệp kịp thời, bảo đảm tính công bằng trong cung ứng dịch vụ công. Các đơn vị cung ứng dịch vụ công phải chịu sự chi phối của Nhà nước về nhiều mặt, nhằm phục vụ mục tiêu xã hội của Nhà nước. Sự can thiệp này là cần thiết để bảo đảm duy trì sự cung ứng cho xã hội những dịch vụ tối cần thiết và có chất lượng.

Thứ ba, các chính sách phải bảo đảm hài hòa lợi ích. Một mặt, phải tạo động lực lợi ích cho khu vực tư nhân, mặt khác, phải kiểm soát được lợi nhuận của họ trong khuôn khổ xã hội chấp nhận được. Đây là bài toán phải bảo đảm hài hòa giữa lợi ích tư nhân trong cung ứng dịch vụ công và lợi ích của xã hội. Ngoài ra, công tác quản lý của Nhà nước phải góp phần mở rộng khả năng tham gia rộng rãi của các tầng lớp xã hội trong cung ứng dịch vụ công. Đồng thời, Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách và hệ thống công cụ hữu hiệu để quá trình xã hội hóa đạt được mục tiêu và kết quả mong muốn.

Thứ tư, cần xác định mô hình và phương thức xã hội hóa phù hợp cho từng loại dịch vụ công. Các mô hình, phương thức tổ chức cung ứng từng loại dịch vụ công rất đa dạng, vì vậy, cần có định hướng xã hội hóa cho từng loại khác nhau:

(i) Đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nói chung, người dân được phục vụ không phải trả tiền, trừ một số ít dịch vụ có thu phí, lệ phí (đăng kiểm, công chứng,…) cho dù chủ thể cung ứng là cơ quan nhà nước hay tư nhân. Với hình thức này, sở hữu nhà nước vẫn là chủ đạo.

(ii) Đối với các dịch vụ xã hội, như giáo dục, y tế,… cần có sự phân biệt rõ về mặt cơ chế hoạt động giữa khu vực công và tư. Với khu vực tư, bảo đảm hoạt động chủ yếu theo cơ chế thị trường, theo quan hệ cạnh tranh nhưng có sự ràng buộc bởi các quy định của pháp luật.

(iii) Đối với các dịch vụ công ích không có tính cạnh tranh và tính loại trừ trong hưởng thụ, như môi trường, xử lý rác, nước thải,… nói chung Nhà nước nên đảm nhiệm, bởi tư nhân không muốn tham gia và nếu tham gia thì khó có thể bảo đảm chất lượng dịch vụ. Nếu chuyển giao cho tư nhân thì phải có cơ chế giám sát chặt chẽ của cơ quan nhà nước để bảo đảm chất lượng dịch vụ cung ứng./.

Theo TS. PHẠM VIỆT DŨNG/Tạp chí Cộng sản

-----------------------

(1) Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP): Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, bối cảnh và chính sách, Hà Nội, 2012
(2) Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trường Đại học Kinh tế quốc dân: Điển hình doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, Hà Nội, 2016
(3) Ngô Minh Tuấn: “Vai trò của các tổ chức không vì mục tiêu lợi nhuận trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công tại Việt Nam”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 5+6, 2009
(4) Duy Quang: “Quốc hữu hóa giúp Hoa Kỳ giải cứu hàng triệu việc làm và đảm bảo an sinh xã hội”, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/quoc-huu-hoa-giup-hoa-ky-giai-cuu-hang-trieu-viec-lam-va-dam-bao-an-sinh-xa-hoi-80892.htm, truy cập ngày 11-5-2021.

 

 

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều