Cơ sở khoa học về vai trò của MTTQ Việt Nam trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xác định một trong những nội dung trọng tâm trong Chương trình hành động nhiệm kỳ 2019 - 2024: “Thực hiện dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”. Để thực hiện thành công nội dung đó, cần nghiên cứu, làm rõ cơ sở khoa học, thực trạng và phương hướng, giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bài viết trình bày cơ sở khoa học về vai trò của của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Cơ sở chính trị về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đổi mới (1986) đến nay, Đảng ta rất quan tâm đến việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Những năm cuối của thập niên 90 thế kỷ XX, nhiều nơi ở địa bàn nông thôn đã xảy ra các vụ khiếu kiện, tố cáo cán bộ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, gây mất ổn định ở địa phương. Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa VIII) đã đề ra yêu cầu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở. Nghị quyết nhấn mạnh: "Hàng năm, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân có báo cáo tổng kết công tác, thông qua những hình thức phù hợp, thông qua Mặt trận và các đoàn thể để phê bình, tự phê bình trước nhân dân và đề nghị nhân dân nhận xét đánh giá". Như vậy, Đảng đã khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là chủ thể quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân.

Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị khoá VIII ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ: Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất". Chỉ thị yêu cầu: "Tổ chức Đảng và đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức Đảng phải làm cho đảng viên thông suốt nhận thức, tư tưởng; đảng viên, nhất là các đảng viên có chức vụ trong chính quyền phải gương mẫu tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong đảng bộ và trong nhân dân. Qua tự phê bình trong nội bộ và qua phê bình nhận xét của nhân dân, biểu dương những cán bộ, đảng viên tốt, gương mẫu và xử lý những cán bộ, đảng viên có sai phạm...". Việc "phê bình nhận xét của nhân dân" đã được Đảng khẳng định từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa VIII) như đã nêu trên.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội.

Thông báo số 161-TB/TW ngày 16/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về Đề án Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát cán bộ, đảng viên ở khu dân cư nêu rõ: Mục đích của việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát cán bộ, đảng viên ở khu dân cư là nhằm "giúp đảng viên, cán bộ, công chức ở khu dân cư và gia đình họ nâng cao ý thức trách nhiệm gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, chấp hành những quy định ở khu dân cư, gần gũi với dân hơn... Thông qua giám sát mà nâng cao vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức thành viên, của toàn dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước".

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân... Mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nêu rõ: "Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Báo cáo nhấn mạnh: Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền...

 Kết luận số 120-KL/TW ngày 7/1/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục tuyên truyền, giáo dục để hội viên, đoàn viên và nhân dân hiểu và thực hiện đúng các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, nhất là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân...”. Đối với công tác Mặt trận giai đoạn 2016-2021, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thường xuyên quan tâm chỉ đạo xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, không ngừng hoàn thiện các thiết chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, trong đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn được khẳng định ở vị trí trung tâm và rất quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Cơ sở pháp lý cho quá trình tham gia thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

Thể chế hóa đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, về dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về các lĩnh vực đó; và các văn bản quy phạm pháp luật đó cũng có nhiều quy định về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung; trong việc thực hiện dân chủ và dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng. Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước”. Với sứ mệnh cao cả đó, trong toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và trong quá trình thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần quan trọng làm nên những thành tựu vẻ vang của lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Vai trò đó của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được ghi nhận và khẳng định tại Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã củng cố sự đoàn kết gắn bó giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, qua đó làm cho uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng được nâng cao. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đang đòi hỏi phải thực hiện tốt hơn nữa “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” cao hơn và vững chắc hơn. Muốn có đoàn kết thì phải bảo đảm sự đồng thuận trong toàn hệ thống chính trị, trong xã hội và các tầng lớp nhân dân. Muốn có đồng thuận thì phải thực hành dân chủ, trong đó dân chủ ở xã, phường, thị trấn là quan trọng nhất, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cấp xã làm được thì mọi việc đều xong xuôi”. Trong việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ góp phần tích cực vào việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân chủ, mà thông qua hoạt động và phản ánh của Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở, còn góp phần kiến nghị với Đảng và Nhà nước kiến tạo những điều kiện cụ thể để thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn một cách thiết thực nhất, đồng thời hạn chế tính hình thức trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn khẳng định “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một trong những chủ trương được nhân dân tuyệt đối đồng tình ủng hộ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp khác để thiết lập cơ chế công khai cho dân biết, dân bàn, dân kiểm tra. Không chỉ vậy, để thực hiện chủ trương (và cũng là bản chất của Nhà nước ta) là “của dân, do dân và vì dân”, trong quá trình tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đầu mối rất quan trọng của Hội đồng bầu cử, cùng các cơ quan có thẩm quyền chủ trì tổ chức lựa chọn ứng viên và toàn bộ quá trình bầu cử, để đảm bảo bộ máy nhà nước ta thực sự là do nhân dân bầu ra trong các cuộc bầu cử theo nguyên tắc phổ thông phổ thông đầu phiếu.

Vai trò là “cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân” của Mặt trận không chỉ có ở các cuộc hiệp thương, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn bám sát những ý kiến của nhân dân đã được phản ánh với Đảng và Nhà nước, để một mặt giám sát việc tiếp thu của chính quyền, mặt khác tiếp tục kiến nghị những giải pháp bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho phù hợp thực tiễn và ý nguyện của nhân dân. Trong quá trình thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chủ trương đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến; không phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.

Điều 3 Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:

Thứ nhất, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Thứ hai, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Thứ ba, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi kinh tế - xã hội của đất nước càng phát triển, càng hội nhập sâu với thế giới thì những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn sẽ ngày càng đặt ra nhiều vấn đề cần được cả hệ thống chính trị quan tâm giải quyết. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII và Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII về công tác cán bộ đã nhấn mạnh, đất nước cần những người có đức, có tài, có tâm để đáp ứng với tình hình mới, để tiến cử vào cương vị lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy của Đảng và Nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong quá trình đó, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng trở nên quan trọng trong việc đảm bảo dân chủ để nhân dân tham gia chủ động, tích cực vào thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời, Mặt trận cũng có tiếng nói độc lập trong công tác nhân sự của Đảng và chính quyền các cấp, là một kênh giúp Đảng và Nhà nước đánh giá, lựa chọn cán bộ, công chức, đảng viên có đức, có tài ngay từ cấp cơ sở, nơi gần gũi nhân dân nhất. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã làm tốt công tác giám sát, ngăn ngừa, hạn chế lợi ích riêng, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm thông qua công tác phối hợp giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư, làm giảm đi tình trạng xa dân, đứng ngoài dân, đứng trên dân, hách dịch, ức hiếp nhân dân.

Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp có số lượng đơn vị hành chính lớn nhất. Theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 31/12/2017, tổng số đơn vị hành chính cấp xã là 11.162 (trong đó có 8.973 xã; 1.587 phường và 602 thị trấn). Ngoài ra, tuy không là cấp hành chính cơ sở nhưng thôn và tổ dân phố cũng giữ vai trò quan trọng cho việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Cũng theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 31/12/2016, số thôn, tổ dân phố cả nước là 136.824 (trong đó số tổ dân phố là 47.293; số thôn là 89.531). Như vậy, tương ứng với số đơn vị hành chính cấp xã, có 11.162 Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và rất nhiều Ban Công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố.

Xã, phường, thị trấn có vai trò, vị trí rất quan trọng, đây là cấp hành động, là nơi tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Xã, phường, thị trấn còn là nơi diễn ra các phong trào, các hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước và nhân dân, là nơi mà quyền dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân được thực hiện một cách trực tiếp và rộng rãi nhất; đồng thời cũng là môi trường xã hội để rèn luyện, thử thách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức cấp xã. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo ở xã, phường, thị trấn. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ và được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng từ việc tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

Dân chủ ở xã, phường, thị trấn là dân chủ của mọi người dân sinh sống, làm việc ở xã, phường, thị trấn. Phát huy và mở rộng dân chủ ở xã, phường, thị trấn của cán bộ, công chức và người dân ở xã, phường, thị trấn vừa là quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, đồng thời qua đó là điều kiện tốt nhất để khắc phục bệnh quan liêu và chống những hiện tượng và hành vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy nhà nước. Nếu dân chủ ở xã, phường, thị trấn được thực hiện tốt, có hiệu quả thì các địa phương, vùng miền sẽ mạnh, ngược lại nếu cơ sở yếu kém, trì trệ thì cả hệ thống chính trị sẽ bị ảnh hưởng không tốt. Như vậy, muốn đất nước phát triển thì phải bắt đầu ổn định từ xã, phường, thị trấn, phải xuất phát từ xã, phường, thị trấn, có như vậy mới bảo đảm cho sự gắn kết, thống nhất bền vững giữa Nhà nước và nhân dân. Đó là những cơ sở thực tiễn về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Qua từng bước phát triển của cách mạng Việt Nam, hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung; trong thực hiện và phát huy dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng không ngừng được xây dựng, hoàn thiện và ngày càng phát triển hơn, tạo nền tảng chính trị, pháp lý vững chắc cho quá trình tham gia thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Trong chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy vai trò và tác dụng, trong đó nổi bật là vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Phạm Thị Hồng

TS, Phó Trưởng ban Dân chủ - Pháp luật, UBTW MTTQ Việt Nam

Tài liệu tham khảo

1.         Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

2.         Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.

3.         Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4.         Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5.         Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6.         Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

7.         Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

8.         Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII, Hà Nội, 2014.

9.         Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, Hà Nội, 2019.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều