Đào tạo nguồn nhân lực, góp phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay

(Mặt trận) - Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay không thành công trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực đã và đang trở thành nhiệm vụ cấp bách không chỉ của mỗi quốc gia, mà còn là vấn đề của từng vùng, miền theo đặc điểm về địa lý, dân cư và yêu cầu định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những giải pháp cơ bản, mang tính lâu dài là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các vùng này, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời giảm nghèo nhanh, bền vững, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phát triển nguồn nhân lực là phát triển số lượng và phát triển chất lượng nguồn nhân lực, trong đó chú trọng phát triển chất lượng nguồn nhân lực (như năng lực thể chất và tinh thần; trình độ, tri thức và năng lực thực tiễn; kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức…) có ý nghĩa quyết định đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta. Một trong những quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19/4/2011 xác định rõ: “Phát triển nhân lực toàn diện, gồm những yếu tố thể lực, tri thức, kỹ năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội theo yêu cầu phát triển toàn diện con người và phát triển đất nước bền vững”.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ luôn quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đây là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Do vậy, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, thời gian qua, nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên hiện nay, lao động dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường mới còn hạn chế; trong đó đặc biệt là tác phong, kỷ luật lao động của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số còn nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia, các nền kinh tế, thuộc về những nước có nguồn nhân lực được đào tạo một cách có hệ thống, đó là nguồn nhân lực chất lượng cao - những người có trình độ chuyên môn cao, có khả năng cạnh tranh quốc tế, có kỹ năng lao động giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất quá trình sản xuất xã hội để đạt tới sự phát triển nhanh và bền vững cả nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng.

Thực trạng nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) đã khẳng định: “Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số”…, đồng thời, quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số”. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, đề án, dự án trên tất cả lĩnh vực của đời sống như phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, văn hóa, hỗ trợ an sinh xã hội… đối với đồng bào nghèo, vùng dân tộc thiểu số, giúp xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí đều được triển khai ở bốn vùng trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ). Từ đó, thực hiện mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa vùng nông thôn với vùng thành thị, giữa miền núi với miền xuôi.

Để vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển bền vững, không có cách nào khác là phải động viên, hỗ trợ cho người dân nâng cao trình độ dân trí, khả năng nắm bắt khoa học - kỹ thuật, ý chí tự lực vươn lên xóa đói, giảm nghèo bền vững, trong đó đặc biệt chú trọng tới vấn đề phát triển chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nêu rõ: “Cần phải quan tâm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số”. Báo cáo dựa trên kết quả phân tích số liệu điều tra thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015 (Ủy ban Dân tộc, UNDP, Irish Aid, 2017), giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi còn thấp ở các dân tộc thiểu số. Có khoảng 70% học sinh trong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp. Tỷ lệ học sinh đi học đúng cấp trung học phổ thông trung bình chỉ đạt 32,3%; tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết đọc, biết viết tiếng phổ thông chỉ có 79,2%. Lực lượng lao động đã qua đào tạo có tỷ lệ rất thấp trong nhóm dân tộc thiểu số với 6,2% tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình của lực lượng lao động cả nước. Nam giới người dân tộc thiểu số có việc làm chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới (52% nam và 48% nữ). Chỉ 6,2% lao động dân tộc thiểu số có việc làm đã qua đào tạo, song đa số chỉ được đào tạo đến trung cấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số. Nguồn lao động của vùng dân tộc thiểu số và miền núi chủ yếu tham gia vào nghề nông và các nghề đơn giản, các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và trung bình rất ít. Tại vùng trung du và miền núi phía Bắc có đến 78,44% dân số từ 15 tuổi trở lên đang tham gia vào nghề nông và các ngành nghề đơn giản, trong khi chỉ có 6,26% tham gia vào các ngành nghề có chuyên môn kỹ thuật cao và trung bình; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tương ứng là 64,81% và 7,31%; Tây Nguyên là 76,33% và 5,93%. Nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động của vùng dân tộc thiểu số đã qua đào tạo mới đạt 10,5% (so với cả nước 25%), trong khi chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất lớn 89,5%; nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi có trình độ đại học, trên đại học đạt 2,8%, riêng người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1% (thấp hơn 4 lần so với toàn quốc). Số liệu trên phần nào phản ánh thực trạng về trình độ và năng lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số chưa thực sự hợp lý về cơ cấu trình độ, phân bổ vùng, miền. Về trình độ trung học phổ thông (THPT): Tây Bắc 88,3%, miền Trung và Tây Nguyên 73,9%, Nam Bộ 71,9%. Về trình độ trung cấp, sơ cấp có tỷ lệ tương ứng là 28,5 - 49,9 - 24,2. Đại học, sau đại học, cao đẳng: 63,5 - 45,7 - 60,3. Lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp: 35,7 - 31,3 - 35,4. Lý luận chính trị cao cấp, đại học: 25,4 - 68,7 - 54,6. Quản lý nhà nước bậc sơ cấp, trung cấp: 53,9 - 18,6 - 42,4. Quản lý nhà nước bậc đại học: 7,2 - 0,3 - 0,5. Điều này có ảnh hưởng tới khả năng giải quyết công việc được phân công. Chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số và miền núi chưa đáp ứng yêu cầu công việc, chưa nâng cao hiệu quả công tác và đáp ứng nhu cầu của nhân dân trên địa bàn.

Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc về kết quả 10 năm thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhờ sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, bảo đảm đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Hệ thống giáo dục chuyên biệt (trường Phổ thông dân tộc nội trú, Phổ thông dân tộc bán trú …) ngày càng phát huy hiệu quả tích cực. Trên 50% học sinh của các trường này thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng; 5% học cử tuyển, 13% vào dự bị đại học, 20% học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, số ít còn lại tham gia công tác và lao động sản xuất ở địa phương… Hiện nay, cả nước có 14 trường cao đẳng, trung cấp dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Hầu hết, các xã có trường mầm non, 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở (THCS), trung tâm cụm xã có trường trung học phổ thông (THPT)… Nhờ vậy, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp ngày càng cao, chất lượng từng bước được nâng lên, góp phần nâng cao tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số, đáp ứng ngày càng tốt hơn nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.

Kết quả điều tra thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 cho thấy, năm 2019 có 98,6% số thôn thuộc các xã vùng dân tộc thiểu số đã được tiếp cận. Trong đó, tỷ lệ thôn được sử dụng điện lưới quốc gia chiếm tới 97,2%, tăng 4,2 điểm phần trăm so với năm 2015. Gần 90% các thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số đã có đường giao thông đến trung tâm xã được cứng hóa, cao hơn 17 điểm phần trăm so với năm 2015. Hầu hết, các xã vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế, chiếm 99,5% tương đương với kết quả điều tra năm 2015. Tỷ lệ đi học trung cấp tiểu học của người dân tộc thiểu số là 100%, cấp THCS là 85,8% và THPT là 50,7%. So với năm 2015, mức độ tiếp cận với giáo dục phổ thông của người dân tộc thiểu số đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là ở cấp THPT với tỷ lệ đi học chung ở cấp này tăng 8,9 điểm phần trăm… Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc vùng dân tộc thiểu số là 35,5%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2015; cao gấp 3,5 lần tỷ lệ chung của toàn quốc (10,2%).

Từ thực trạng và những phân tích, đánh giá nêu trên cho thấy, sự chỉ đạo, định hướng cho công tác dân tộc, miền núi trong 5 năm tới và những năm tiếp theo của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đề ra nhằm giải quyết hai vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đó là xóa đói, giảm nghèo, giảm nghèo đa chiều và nâng cao dân trí.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, chiến lược của Đảng về xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số chất lượng cao đã đạt được những kết quả khả quan. Đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng vai trò to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, xem xét việc thực hiện từng chính sách trong chiến lược này còn nhiều vấn đề cần bàn.

Đối với việc thực hiện chính sách tạo nguồn, để tạo nguồn nhân lực ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thì công tác giáo dục, nâng cao dân trí gắn liền với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh làm nền tảng. Các chủ trương, biện pháp cho công tác này được triển khai thực hiện, bao gồm: xóa mù chữ và chống tái mù chữ, tiến tới phổ cập giáo dục tiểu học, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa; mở rộng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, các trường dạy nghề, trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm, chuẩn bị nguồn lực để đào tạo con em các dân tộc có hoàn cảnh khó khăn, ưu đãi việc tuyển sinh vào các trường cao đẳng, đại học, thực hiện chế độ cử tuyển; mở rộng chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận; thực hiện chính sách ưu đãi đối với giáo viên công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Nhờ đó, công tác tạo nguồn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, cũng còn không ít các vấn đề cần khắc phục, như: chất lượng cán bộ sau khi được đào tạo chưa cao do hạn chế về tiếp thu kiến thức trong chương trình phổ thông; cơ sở vật chất của hệ thống trường học chưa đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục; việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và từng dân tộc.

Thành tựu trong công tác giáo dục là đáng ghi nhận, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của sự phát triển, chưa vững chắc và thiếu tính bền vững. Việc thực hiện chính sách sử dụng, đãi ngộ, mặc dù được Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên trong việc sử dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; tuy nhiên, khi xem xét thực trạng nguồn nhân lực ở một số địa phương cho thấy, vẫn còn tình trạng mất cân đối trong cơ cấu sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số; việc quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ được đào tạo còn nhiều vấn đề bất cập, thiếu quy hoạch. Hiện có không ít cử nhân, kỹ sư được đào tạo từ các trường đại học là con em các dân tộc thiểu số chưa sắp xếp được việc làm. Tình trạng này cũng diễn ra ở nhiều địa phương, ở đây không phải do không có nhu cầu, mà do địa phương không có biên chế, nên số cán bộ trên chưa được tiếp nhận và tuyển dụng. Chính điều đó dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ ngay trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Những phát triển mới của đất nước cũng đòi hỏi một nguồn nhân lực toàn diện, có chất lượng cao. Đó là một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các lĩnh vực hay đội ngũ chuyên gia khoa học, văn hóa có kiến thức vững vàng, luôn cập nhật những kiến thức mới của thế giới và gắn bó với thực tiễn, có sức sáng tạo, có tâm huyết với sự nghiệp phát triển đất nước, cộng tác chặt chẽ với các doanh nghiệp và người lao động cùng sáng tạo những công trình, sản phẩm đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Có thể nói, trước những yêu cầu của thực tế, đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số, với khoảng 50% có trình độ chuyên môn ở bậc trung, sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo đối với cấp tỉnh và tỷ lệ này ở cấp huyện, cơ sở là 80% cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là rất cấp thiết.

Để thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ưu tiên nguồn lực đầu tư cho kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Các Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình giảm nghèo theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ (nay là 64 huyện nghèo); Nghị quyết trồng mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 100/2007/QĐ-TTg ngày 6/7/2007; Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030… là những chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, nhận được sự quan tâm và đồng thuận cao của cả xã hội nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo cho những vùng khó khăn nhất của đất nước.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả to lớn, tuy nhiên chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhìn chung vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước và yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Trong đó, mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đã được tăng cường đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định một trong ba đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tuy nhiên, so với mặt bằng chung toàn quốc thì trình độ khoa học - công nghệ và chất lượng của lực lượng lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Thực tiễn này cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực thấp chính là rào cản lớn cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở Việt Nam nói chung và vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng.

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực góp phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay

Để giải quyết bài toán phát triển nguồn nhân lực chất lượng, hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời giảm nghèo nhanh, bền vững, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Do đó, một trong những giải pháp cơ bản, mang tính lâu dài là phải phát triển nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các vùng này như sau:

Thứ nhất, cần huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao. Trong đó, cần tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nhân lực, nhất là đầu tư cho giáo dục, cho y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhân lực, nhất là trong lĩnh vực đào tạo, huy động nguồn vốn xã hội cho giáo dục và đào tạo. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo nhân lực với các hình thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp, gắn đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp, nhu cầu xã hội.

Cần tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ ngoài nước, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài, vốn của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,… trong đó đòi hỏi cần có sự tham gia tích cực của tất cả các cấp, các ngành, của người dân. Động viên mọi nguồn lực, trong đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố bảo đảm và là khâu đột phá cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Thứ hai, thực hiện tốt công tác bố trí, đào tạo, sử dụng cán bộ công chức tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 08/2011/QĐ-TTg ngày 26/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường cán bộ cho các xã thuộc huyện nghèo; Quyết định số 170/QĐ-TTg ngày 26/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thuộc 64 huyện nghèo; Quyết định số 402/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030;...

Đối với sinh viên đào tạo theo hệ cử tuyển tại các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước, sau khi hoàn thành khóa học các tỉnh cần sắp xếp, bố trí việc làm kịp thời, hợp lý đúng chuyên môn đào tạo. Đây chính là những hạt nhân quan trọng trong công tác phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao ở các tỉnh hiện nay. Bên cạnh đó, cần chú ý công tác đào tạo lại các cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số nhằm bảo đảm đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ trong tình hình mới, có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm khích lệ cán bộ cơ sở, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn yên tâm công tác, cống hiến.

Thứ ba, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, cần triển khai kế hoạch, biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh mẽ trong việc khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực cho đúng. Các địa phương cần có những cơ chế, chính sách sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để thu hút được nhân tài, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” như hiện nay, đặc biệt là nguồn nhân lực công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Cải thiện thông tin về nguồn lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho người dân, đặc biệt là đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay. Hàng năm, cần tổng kết về lý luận và thực tiễn, đánh giá đúng những mặt được và chưa được, kịp thời rút kinh nghiệm để xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam cho phù hợp với từng thời điểm.

Thứ tư, đổi mới nhận thức về phát triển, sử dụng, quản lý nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nói chung và nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao nói riêng. Để thực hiện được giải pháp này, trước hết phải quán triệt sâu sắc quan điểm coi con người là nền tảng, là yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước. Với ý nghĩa đó, đòi hỏi chúng ta, trước hết là các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, phải thực sự coi trọng con người, tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của con người, tạo điều kiện tốt nhất để con người phát triển, đặc biệt là môi trường dân chủ. Một trong những yêu cầu của đổi mới nhận thức về phát triển nguồn nhân lực là phải coi trọng hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng thu hẹp, thì vấn đề phát triển chất lượng nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu, nhất là nhân lực công nghệ thông tin; nhân lực khoa học và công nghệ. Cùng với phát triển nguồn nhân lực là vấn đề sử dụng, quản lý nguồn nhân lực của đất nước.

Một trong những giải pháp lớn của “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020” là sử dụng, đánh giá đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực thực và kết quả, hiệu quả công việc. Khắc phục tâm lý và hiện tượng quá coi trọng và đề cao “bằng cấp” một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh giá nhân lực. Có được như vậy, chính sách “trọng dụng nhân tài” mới được hiện thực hóa, chúng ta không để lãng phí chất xám, lãng phí nguồn nhân lực.

Phát triển nguồn nhân lực là một giải pháp quan trọng góp phần phát triển nhanh và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng nền kinh tế thế giới. Trong thời gian tới, khi triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội đã được phê duyệt. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để các địa phương được thụ hưởng chính sách đặc biệt của Đảng và Nhà nước quyết tâm chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu, xác định nhu cầu đào tạo, xác định phương thức đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng nhân lực. Đồng thời, các tỉnh có cơ chế, chính sách thu hút học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp được trang bị các kiến thức, kỹ năng tại các trường nghề, các trường đào tạo về nông nghiệp và phát triển nông thôn về công tác tại địa phương. Đồng thời, cần quan tâm việc bố trí, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ lâu dài để phát triển nhanh và bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi là vấn đề hết sức cần thiết trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Nguyễn Duy Dũng - PV

Tài liệu tham khảo

1.        Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

2.        Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

3.        Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, Volume 9, Issue 1, March 2020, tr.53-54.

4.        Thanh Huyền - Hoài Dương, Công bố kết quả điều tra thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Báo điện tử Dân tộc và Phát triển số ra ngày 3/07/2020.

5.        Phạm Minh Hạc, “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996 .

6.        Đoàn Văn Khái. “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án Tiến sĩ Triết học, 2000.

7.        Hà Quế Lâm (năm 2002), Đề tài khoa học cấp Bộ, Văn phòng Quốc hội, “Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay”.

8.        TS. Trịnh Quang Cảnh, Ý nghĩa của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức người DTTS ở nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục Lý luận, 2001.

9.        PGS.TS. Vũ Thanh Sơn, Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9, 2019.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều