Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hiện nay

Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò và sự đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ. Việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với tổ chức hội và công tác vận động phụ nữ được quan tâm theo hướng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của phụ nữ trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là nhân tố có tính quyết định tới những thành quả đạt được trong công tác vận động phụ nữ nói chung và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói riêng.
 

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước  Đặng Thị Ngọc Thịnh gặp mặt đoàn đại biểu nữ cựu chiến binh là doanh nhân, nữ doanh nhân thành phố Hà Nội, ngày 15-10-2019_Ảnh: TTXVN

Đổi mới quy trình, cách thức ban hành nghị quyết theo hướng tăng cường sự tham gia của phụ nữ và phát huy vai trò phản biện của tổ chức hội

Những năm gần đây, Đảng ta đã có sự đổi mới căn bản trong cách thức tiếp cận với những vấn đề của phụ nữ, phát huy mạnh mẽ vai trò phản biện xã hội của tổ chức hội trong quá trình xây dựng, ban hành các chủ trương, nghị quyết, chính sách liên quan đến công tác vận động phụ nữ. Quy định về việc lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức hội được đưa vào nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, như “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” theo Quyết định số 217- QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Bình đẳng giới năm 2006,...

Phát huy dân chủ và lắng nghe ý kiến của phụ nữ, tăng cường các diễn đàn đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với tổ chức hội và với phụ nữ, lấy ý kiến rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, đặc biệt là đối tượng phụ nữ thụ hưởng hoặc chịu tác động của chủ trương, nghị quyết, chính sách. Chính vì vậy, chủ trương, nghị quyết, chính sách khi ra đời đã bảo đảm tính khoa học, tôn trọng quy luật khách quan, hướng vào giải quyết đúng và trúng vấn đề đang được đặt ra trong thực tiễn đối với phụ nữ và công tác hội để tập trung lãnh đạo các cấp, các ngành, tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam và các tầng lớp phụ nữ cũng như cả xã hội thực hiện.

Chỉ tính riêng với Dự thảo Hiến pháp năm 2013, các cấp Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức lấy ý kiến của trên 10 triệu lượt phụ nữ và đã có trên 1,2 triệu ý kiến tham gia. Cũng từ năm 2013 đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã tham gia phản biện xã hội nhiều dự thảo luật quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới, như Bộ luật Dân sự (sửa đổi); Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ luật Lao động (sửa đổi), Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Trẻ em...; tổ chức 21.742 cuộc đối thoại trực tiếp với các cơ quan liên quan để đề xuất các nội dung cụ thể vào văn bản dự thảo trên cơ sở ý kiến, nguyện vọng của phụ nữ, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức hội và các quy định của pháp luật. Nhiều ý kiến đóng góp của Hội LHPN Việt Nam đã được nghiêm túc tiếp thu, góp phần làm cho hệ thống chính sách về bình đẳng giới, chính sách dành cho phụ nữ ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và được đánh giá là tiến bộ so với các nước trong khu vực.

Đổi mới việc ban hành các chủ trương, nghị quyết theo hướng nâng cao vai trò, nhấn mạnh nhiệm vụ của các cấp hội

Trước hết, đối với phụ nữ, việc chuyển hướng căn bản từ là đối tượng cần được quan tâm, chăm lo sang vai trò chủ thể trong công tác phụ nữ đã được thực hiện nghiêm túc, có nhiều đổi mới. Phát huy tiềm năng, sự đóng góp của họ với tư cách là nguồn nhân lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước được thể hiện khá rõ trong chủ trương của Đảng. Thời kỳ đầu đổi mới, Đảng ta xác định “Phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới”. Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của Bộ Chính trị, Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ rõ: “Nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực... là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới”; đồng thời, khẳng định vai trò chủ thể của phụ nữ trong công cuộc này. Sau gần 35 năm đổi mới, Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20-1-2018, của Ban Bí thư, Về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới, nhấn mạnh: “Chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, tôn vinh nhằm khơi dậy tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần khởi nghiệp, khát vọng của đội ngũ nữ lãnh đạo quản lý, nữ trí thức, nữ cán bộ khoa học, nữ doanh nhân...”.

 

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hà trao quà cho các đối tượng chính sách tỉnh Bắc Ninh, ngày 29-12-2019_Ảnh: TTXVN

Những năm gần đây, các cấp hội phụ nữ, chính quyền các cấp cùng toàn xã hội đã thực hiện việc chuyển hướng các hoạt động từ đơn thuần chăm lo sang khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng và vai trò chủ thể của phụ nữ theo quan điểm của Đảng và đạt được nhiều kết quả, nhờ đó phụ nữ tham gia ngày càng chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ngày càng cao, trong đó có nhiều cán bộ nữ đảm nhiệm các vị trí chủ chốt, quan trọng ở cả Trung ương và địa phương; trong các hoạt động khoa học - công nghệ, nhiều công trình, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước do phụ nữ làm chủ nhiệm đã đóng góp cơ sở khoa học cho việc tham mưu hoạch định chính sách, ứng dụng vào sản xuất và hoạt động thực tiễn, đem lại lợi ích trên nhiều lĩnh vực.

Về vai trò của tổ chức hội, nếu như Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12-7-1993, của Bộ Chính trị, Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, khẳng định: “Hội Liên hiệp phụ nữ là tổ chức đại diện cho lợi ích của phụ nữ, là trung tâm tập hợp đoàn kết phụ nữ Việt Nam, hướng dẫn và vận động chị em phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ”; thì hơn 10 năm sau, Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của Bộ Chính trị, Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nâng thành trách nhiệm nòng cốt trong công tác phụ nữ. Theo đó, vai trò đại diện của các cấp hội ngày càng được coi trọng, phát huy theo hướng “thực hiện nghiêm túc trách nhiệm bảo đảm cho các cấp hội tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; giám sát, phản biện xã hội; đảm nhiệm một số nhiệm vụ trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội”.  Đảng ban hành nhiều quy định, quy chế về giám sát, phản biện xã hội; về việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó có Hội LHPN Việt Nam. Chức năng đại diện cho các tầng lớp phụ nữ của Hội LHPN Việt Nam và nâng cao quyền làm chủ cho phụ nữ ngày càng được thực hiện chủ động, hiệu quả hơn, nhất là trong xây dựng, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Qua giám sát, phản biện xã hội, phát hiện kịp thời sai sót trong thực thi chính sách, giúp cán bộ của Đảng, Nhà nước, trong đó có người đứng đầu kịp thời điều chỉnh(1), đề xuất được các chính sách phù hợp tạo đồng thuận xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng(2).

Đẩy mạnh thể chế hóa chủ trương, nghị quyết thành các chính sách cụ thể, phát huy tiềm năng, thế mạnh, vai trò chủ thể của phụ nữ và chăm lo cho phụ nữ, đặc biệt là các nhóm phụ nữ đặc thù, dễ bị tổn thương trong xã hội

Việc vận hành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu thể chế hóa mạnh mẽ các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác phụ nữ, bởi phụ nữ chiếm tới một nửa lực lượng lao động của xã hội, vừa chịu tác động rất lớn của các quy luật kinh tế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, vừa có cơ hội để khẳng định tài năng và lợi thế của mình, nếu có hệ thống thể chế công bằng, không thiên vị, ở đó thể hiện được đầy đủ quyền của phụ nữ trên cả ba bình diện:
1- Được ghi nhận về mặt lập pháp; 2- Được thực thi về mặt hành pháp; 3- Được bảo vệ về mặt tư pháp. Với quan điểm đó, việc xây dựng, thực hiện các chính sách cụ thể hướng tới bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, phát huy tiềm năng, lợi thế của phụ nữ được đặc biệt quan tâm.

Trong những năm qua, các văn bản quy phạm pháp luật đã thể chế hóa tương đối đầy đủ các quan điểm, chủ trương về công tác phụ nữ, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước có nhiều tiến bộ trong xây dựng khung khổ pháp lý về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ. Trong các văn bản luật pháp, chính sách, các quy định về vị trí, vai trò của Hội ngày càng rõ nét hơn; đã ban hành một số luật riêng biệt về những vấn đề liên quan đến phụ nữ, như Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Vai trò của các cấp hội trong tham gia quản lý nhà nước tiếp tục được khẳng định trong Nghị định số 56/2012/NĐ-CP, ngày 16-7-2012, của Chính phủ, Quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước theo hướng tạo cơ chế, điều kiện để Hội LHPN Việt Nam tổ chức các hoạt động, các chương trình, huy động sự tham gia của phụ nữ trong việc thực hiện các mục tiêu về bình đẳng giới, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của đất nước thông qua các đề án, chương trình cụ thể(3). Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản, chương trình bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ(4) với nhiều quy định mới, tiến bộ(5).

Với mục tiêu cao nhất là sự phát triển bền vững và hướng tới không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện mục tiêu “xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện”, thì giải pháp quan trọng trong công tác vận động phụ nữ của Đảng là: “Xây dựng và thực hiện các chính sách đặc thù hỗ trợ phụ nữ ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, phụ nữ là người dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết tật, đơn thân, cao tuổi, phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ, lao động nữ di cư, chuyển đổi nghề”. Các đề án “Tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia giải quyết các vấn đề xã hội giai đoạn 2017 - 2027”“Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đặc biệt là Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021 - 2030 với nhiều nội dung liên quan đến việc thực hiện mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới và giải quyết một số vấn đề cấp thiết của phụ nữ, trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8, đã thể hiện rất rõ sự thể chế hóa quan điểm này của Đảng.

Tiếp cận công tác phụ nữ từ góc độ vai trò đặc biệt quan trọng của phụ nữ trong gia đình, chủ trương của Đảng là phải hướng vào giải quyết các vấn đề của gia đình thông qua hệ thống chính sách tương đối đồng bộ(6). Theo đó,  Chính phủ đã ban hành Chiến lược Phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, phê duyệt và triển khai thực hiện nhiều đề án hỗ trợ phát triển gia đình. Nhiều chính sách an sinh xã hội, chương trình, đề án hỗ trợ gia đình, góp phần thay đổi vai trò truyền thống, giảm bớt công việc gia đình, tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian học tập nâng cao trình độ, tham gia các hoạt động chính trị - xã hội.

 

Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương” do Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Sơn La phối hợp cùng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh thực hiện đã lan tỏa, giúp đỡ hàng nghìn hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số thoát nghèo, vươn lên trong cuộc sống_Ảnh: TTXVN

Thực hiện chủ trương của Đảng, những năm qua, hoạt động của Hội LHPN Việt Nam hướng đến nhiều đối tượng khác nhau, mở rộng tính liên hiệp để  tăng cường vai trò đại diện, xây dựng, phát huy sự tham gia, vai trò của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao, như đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nữ doanh nhân, nữ trí thức...; đồng thời, có nhiều giải pháp cụ thể dành cho nhóm phụ nữ đặc thù, khó khăn, mà các chương trình “Mái ấm tình thương”(7)“Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”(8)... là ví dụ điển hình. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xác định việc hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc và xây dựng người phụ nữ Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong nhiều nhiệm kỳ, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tổ chức triển khai các đề án về xây dựng gia đình, cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực, trình độ cho phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giáo dục gia đình, chăm sóc sức khỏe và an toàn cho phụ nữ, trẻ em...

Có thể nói, với sự đổi mới trong cách tiếp cận về công tác vận động phụ nữ, nhận thức xã hội về vai trò, khả năng và tiềm năng của phụ nữ có những thay đổi tích cực. Đời sống, việc làm, điều kiện lao động, học tập, vui chơi, giải trí của phụ nữ không ngừng được cải thiện; trình độ, năng lực của phụ nữ ngày càng được nâng lên. Phụ nữ tự tin, chủ động hơn, được thụ hưởng các thành quả trong quá trình phát triển, khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong gia đình và xã hội, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

Cùng với sự vận động của thực tiễn, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ và Hội LHPN Việt Nam không ngừng được đổi mới một cách đồng bộ, rõ nét trên tất cả các phương diện, nhất là đổi mới trong việc ban hành chủ trương, nghị quyết và trong lãnh đạo thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết đó. Đây chính là nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định tới thành công trong các hoạt động của Hội LHPN Việt Nam cũng như sự chuyển biến tích cực trong công tác vận động phụ nữ của toàn xã hội. Hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ và vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ. Nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp phụ nữ ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Với những đóng góp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, phụ nữ đã và đang khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.

Tuy nhiên, bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức cho công tác vận động phụ nữ: Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã hình thành một cộng đồng mạng với sự tham gia của mọi tầng lớp phụ nữ; sự phân tầng, mối quan tâm, lợi ích, nhu cầu của các nhóm phụ nữ rất khác nhau và có sự thay đổi so với trước; đời sống của một bộ phận phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết tật còn nhiều khó khăn; tình hình tội phạm liên quan đến phụ nữ, trẻ em, bạo lực gia đình ngày càng phức tạp; vấn đề lao động, việc làm và những biến đổi của văn hóa gia đình,... đang tạo nên nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Trong thời gian tới, việc tiếp tục tăng cường đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ và Hội LHPN Việt Nam phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay phải được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng, gắn với phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng đến sự phát triển bền vững của đất nước./.

------------------------------
(1) Năm 2017, qua tham gia giám sát chính sách đối với người có công, Hội đã phát hiện 541 trường hợp hưởng sai. Sau giám sát, Hội kiến nghị cấp ủy, chính quyền các địa phương điều chỉnh kịp thời góp phần tạo nên sự công bằng xã hội
(2) Khi phản biện Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội đã kiến nghị, được Quốc hội sửa từ 20 năm xuống 15 năm đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu đối với nữ cán bộ chuyên trách ở cơ sở. Hội cũng đã đề xuất hỗ trợ phụ nữ nghèo dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số và được Chính phủ chấp nhận đưa vào Nghị định số 39/2015/NĐ-CP, ngày 27-4-2015, Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số, với mức hỗ trợ 2 triệu đồng/1 lần. Những điều chỉnh trên đã nhận được sự đồng thuận không chỉ của những người trực tiếp hưởng lợi mà còn được dư luận đồng tình, đánh giá cao sự ưu việt trong chính sách của Nhà nước
(3) Đề án Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức; Đề án Tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia giải quyết các vấn đề xã hội; Đề án Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp,...
(4) Bộ luật Lao động; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Phòng, chống mua bán người; Luật Hôn nhân và Gia đình,...
(5) Giảm số năm đóng bảo hiểm xã hội từ 20 năm xuống 15 năm cho lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn để đủ điều kiện hưởng lương hưu; hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số; tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên 6 tháng; lần đầu tiên có quy định nam giới được nghỉ khi vợ sinh con...
(6) Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Đất đai năm 2013,...
(7) Chương trình hỗ trợ làm nhà cho phụ nữ đặc biệt khó khăn, thực hiện từ năm 2007 đến nay đã vận động xã hội được 1.374,6 tỷ đồng, hỗ trợ làm mới 45.121 và sửa chữa 25.986 căn nhà
(8) Chương trình hỗ trợ phụ nữ các xã biên giới khó khăn, phát động thực hiện từ năm 2018, sau hơn 1 năm thực hiện đã huy động được hơn 65 tỷ đồng với nhiều hoạt động hỗ trợ cụ thể cho 110 xã biên giới đặc biệt khó khăn.

Theo ĐỖ THỊ THU THẢO/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều