Động lực tăng trưởng và xác định động lực tăng trưởng đất nước giai đoạn 2021 - 2030

Xác định động lực tăng trưởng, phát triển của một đất nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó liên quan trực tiếp đến mục tiêu, định hướng, cơ chế, chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực cho các mục tiêu tăng trưởng và phát triển trong những giai đoạn cụ thể. Ở nước ta hiện nay, mặc dù tầm quan trọng của các động lực tăng trưởng và phát triển có sự thống nhất khá cao, nhưng nhận thức, cách tiếp cận, cách xác định động lực tăng trưởng và phát triển lại đang có sự khác nhau.
 

Đại hội lần thứ VI (năm 1986) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về động lực phát triển, khi lần đầu tiên đã nhấn mạnh tới lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất của người lao động là những động lực mới quan trọng để phát triển đất nước (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc hỏi thăm tình hình sản xuất và đời sống của công nhân, người lao động của Công ty Điện tử Foster tại Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh) _Nguồn: baochinhphu.vn

Nhận thức, quan niệm về động lực tăng trưởng, phát triển

Động lực phát triển là những nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển trong một thời kỳ nhất định; có động lực tác động trong thời gian tương đối dài, nhưng cũng có những động lực chỉ tác động trong thời gian ngắn; có những động lực được coi là chủ yếu, có động lực lại được coi là thứ yếu; có những động lực tác động trực tiếp, có động lực lại tác động gián tiếp...

Trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước, động lực tăng trưởng, phát triển chưa được khái quát một cách có hệ thống. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, do nhu cầu thực tế, Đảng đã nêu một số động lực cụ thể. Trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức động lực chủ yếu của sự phát triển là đấu tranh giai cấp. Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội lần thứ VI (năm 1986) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về động lực phát triển. Đại hội đưa ra những định hướng lớn là đổi mới tư duy, giải phóng sức sản xuất và mọi tiềm năng của xã hội, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, sửa đổi các chính sách đòn bẩy kinh tế, hình thành cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trong đó lần đầu tiên đã nhấn mạnh tới lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất của người lao động, tạo ra động lực mới để phát triển đất nước, coi đó là những động lực phát triển quan trọng.

Trong suốt chiều dài của quá trình đổi mới, Đảng ta đã nêu ra các động lực phát triển, gồm: Đổi mới tư duy; giải phóng sức sản xuất; lợi ích; dân chủ; lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; văn hóa mà cốt lõi là phát huy nhân tố con người; khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền, đổi mới tổ chức, cơ chế, chính sách quản lý và đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước tạo môi trường thuận lợi, minh bạch để thúc đẩy phát triển. Đồng thời, Đảng cũng chỉ rõ việc nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Trong hơn 30 năm qua, các động lực đó đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển sang phát triển theo chiều sâu, các động lực cần được đổi mới và xây dựng phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng hiệu quả nhu cầu thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững.

Hiện nay, chưa có cách tiếp cận và những tiêu chí thống nhất về xác định và lựa chọn động lực phát triển, đặc biệt là trên phạm vi quốc gia. Nếu coi tất cả những nhân tố, yếu tố, giải pháp mà nếu thực hiện tốt sẽ góp phần tạo nên sự phát triển là động lực phát triển, có thể nêu khái quát như sau:

Thứ nhất, xác định các động lực phát triển theo liệt kê tổng hợp các lĩnh vực, yếu tố, các giải pháp thúc đẩy phát triển, như: Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất; tăng cường tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)…; thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo; đẩy mạnh phát triển dịch vụ; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công; tiếp tục cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh, điều hành ổn định kinh tế vĩ mô. Có thể thấy, đây là cách xác định các động lực cụ thể để thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ và các mục tiêu phát triển đặt ra. Cũng theo hướng tiếp cận này, có ý kiến xác định động lực phát triển theo các lĩnh vực và vấn đề chủ yếu, như phát triển kinh tế tư nhân, hiện đại hóa các cơ quan nhà nước, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực…

 

Thúc đẩy công nghiệp chế tạo là một trong những động lực tăng trưởng (Trong ảnh: Lắp ráp chi tiết máy tại Nhà máy sản xuất ô tô VinFast) _Ảnh: Tư liệu

Thứ hai, xác định thể chế là động lực tăng trưởng quan trọng, có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Cách tiếp cận này xuất phát từ thực tế sự tăng trưởng, phát triển theo chiều rộng dựa chủ yếu vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên giá rẻ, lao động trình độ thấp và thâm dụng vốn ngày càng suy giảm động lực, dẫn đến tăng trưởng, phát triển thấp; phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao và nguồn nhân lực trình độ cao. Chính điều này đã đặt thể chế phát triển theo chiều sâu có vai trò quan trọng và ngày càng có tính quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.

Trong cải cách thể chế, nhiều ý kiến nhìn nhận động lực tăng trưởng từ nhận thức và tháo gỡ các “điểm nghẽn”, trong đó hiệu lực, hiệu quả của bộ máy được cho là điểm nghẽn lớn nhất, là nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng; trong dài hạn, điểm nghẽn tăng trưởng nằm ở kết cấu hạ tầng và vốn nhân lực… Để tạo được động lực tăng trưởng nhanh, bền vững cần phải thực hiện các giải pháp để xử lý đồng bộ các “điểm nghẽn”. Vì vậy có nhiều ý kiến đặt trọng tâm tạo động lực tăng trưởng vào cải cách thể chế.

Thứ ba, xác định động lực theo vai trò của khu vực kinh tế, trong đó cần coi khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng.

Thứ tư, xác định động lực tăng trưởng theo vai trò của yếu tố tạo nên tăng trưởng, như tài nguyên, vốn, lao động, khoa học - công nghệ, văn hóa, dân chủ, công bằng xã hội... Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu phải dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, do đó khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, đổi mới sáng tạo sẽ là một động lực cơ bản, then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cũng có ý kiến coi năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là động lực tăng trưởng quan trọng.

Thứ năm, xác định động lực tăng trưởng theo vai trò, đóng góp của các khu vực địa - kinh tế (vùng động lực tăng trưởng) vào sự tăng trưởng của cả nước, như khu vực Thành phố Hồ Chí Minh - Đông Nam Bộ; vùng động lực Hà Nội - đồng bằng Bắc Bộ; Đà Nẵng và khu vực miền Trung…

Thứ sáu, có ý kiến nhấn mạnh hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế là một động lực quan trọng đối với sự tăng trưởng của Việt Nam, vì hội nhập quốc tế đã mang lại cho Việt Nam nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các công nghệ mới, kết nối nền kinh tế Việt Nam với thị trường thế giới, cung cấp cho Việt Nam những kinh nghiệm quý giá về quản lý, quản trị nền kinh tế thị trường…

Thứ bảy, có ý kiến cho rằng chính các đột phá chiến lược, khi thực hiện có hiệu quả là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới. Thậm chí, động lực tăng trưởng còn nằm trong cơ cấu lại nền kinh tế tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để tạo nên tốc độ tăng trưởng cao, bền vững.   

Từ các nhận thức và cách tiếp cận về động lực tăng trưởng nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Một là, các động lực tăng trưởng được xem xét từ nhiều cấp độ khác nhau, như cấp độ tác động quốc tế; cấp độ quốc gia; cấp độ vĩ mô; cấp độ nhà nước; cấp độ ngành, lĩnh vực, khu vực; cấp độ các chủ thể sản xuất, kinh doanh, cho đến cấp độ cá nhân người lao động. Các động lực này được xem xét theo các nội dung khác nhau, phạm vi tác động khác nhau, chưa mang tính hệ thống.

Hai là, cách nhìn nhận về động lực cũng khác nhau, có cách nhìn nhận coi nguồn lực (vốn, tài nguyên, con người…) là động lực; có cách nhìn nhận coi yếu tố tác động là động lực; có cách nhìn nhận các chủ thể phát triển (như khu vực kinh tế tư nhân) là động lực tăng trưởng; có cách nhìn nhận coi nội lực mới là động lực; trong khi đó lại có ý kiến coi tác động bên ngoài (như tác động của hội nhập quốc tế…) cũng tạo nên động lực tăng trưởng.

Ba là, các động lực cũng được đề cập với những cấp độ tác động khác nhau, như có động lực tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng; có động lực tác động gián tiếp; lại có động lực mới ở dạng tiềm năng, cơ hội và để trở thành động lực cần phải có những điều kiện cụ thể. Có những động lực nếu để riêng thì có vẻ hợp lý, nhưng trên thực tế nó thuộc một động lực bao trùm hơn (ví dụ động lực cải cách hành chính nằm trong động lực bao trùm là thể chế).

Bốn là, các động lực được kể đến chủ yếu thiên về động lực tăng trưởng kinh tế (về quy mô kinh tế, tăng trưởng theo chiều rộng), chưa đề cập nhiều đến động lực phát triển về chất, phát triển theo chiều sâu, mang tính tổng hợp giữa tăng trưởng và phát triển. Hơn nữa, trong các động lực tăng trưởng cũng ít đề cập đến các động lực phát triển tổng hợp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường theo quan điểm phát triển bền vững.

Năm là, các yếu tố về giá trị tinh thần, giá trị con người, giá trị văn hóa - xã hội, giá trị cộng đồng chưa được nêu bật trong động lực tăng trưởng, phát triển; chưa đề cập đúng mức đến yếu tố lợi ích (theo nghĩa rộng, không chỉ là lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế) trong việc tạo lập động lực tăng trưởng, phát triển.

Sáu là, vấn đề liên kết động lực, cộng hưởng động lực tăng trưởng và phát triển giữa các cá nhân, các gia đình, các chủ thể, đơn vị xã hội, cộng đồng xã hội… thành động lực tăng trưởng, phát triển của một ngành, vùng và cả đất nước, kết nối với động lực tăng trưởng từ các yếu tố quốc tế cũng chưa được đề cập đầy đủ và sâu sắc.

Xác định các động lực tăng trưởng, phát triển chủ yếu của đất nước trong giai đoạn 2021 - 2030

Mặc dù có những khác biệt trong cách tiếp cận về động lực tăng trưởng, phát triển, tuy nhiên, cần thống nhất việc xác định các động lực tăng trưởng, phát triển của đất nước trong giai đoạn mới theo các nguyên tắc sau: Xác định phát triển theo chiều sâu, bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững; xác định ở tầm quốc gia, nghĩa là mức độ tác động phải ở tầm vĩ mô, bao quát trên bình diện cả nước; xác định đồng bộ về các phương diện thể chế, chủ thể và một số yếu tố cơ bản, then chốt cả về vật chất và tinh thần chi phối các lĩnh vực để tạo nên động lực phát triển tổng hợp của đất nước; xác định theo vị trí, vai trò tác động đối với sự phát triển tổng hợp của đất nước trong từng giai đoạn. 

Với cách tiếp cận đó, các động lực tăng trưởng, phát triển đất nước ở cấp độ quốc gia cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:

Động lực niềm tin quốc gia - dân tộc

Đây là động lực mang yếu tố tư tưởng, tinh thần của mỗi quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển nhanh, bền vững không thể không kiến tạo động lực này. Nó giúp cho một quốc gia, dân tộc gắn kết với nhau, vượt qua những khó khăn, thách thức để vươn lên, tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Động lực này không chỉ là kết quả của sự kiến tạo lòng tin của nhân dân, mỗi người lao động, các doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, mà còn là kiến tạo niềm tin và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân với tư cách là chủ thể phát triển của xã hội, đất nước. Đó còn là sự kiến tạo niềm tin, những giá trị phát triển tốt đẹp giữa con người với con người, giữa các chủ thể với nhau trong cộng đồng quốc gia, dân tộc, kết tụ ở đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

Động lực này sẽ được xác lập trên nền tảng đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đúng đắn của Đảng vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trên nền tảng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, một hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách quản lý, quản trị phát triển hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch; một nền hành chính liêm chính, tinh thần trách nhiệm cao trước dân; trên nền tảng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức “thực đức - thực tài”, thật sự là công bộc, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích phát triển của đất nước lên trên hết. Động lực này sẽ phát huy cao độ khi thực hành dân chủ xã hội rộng rãi gắn liền với thực thi kỷ cương phép nước; tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mỗi con người và của tất cả chủ thể trong xã hội. Có động lực niềm tin này, mọi người dân, tất cả chủ thể trong xã hội sẽ vững tâm đem nguồn lực, trí tuệ, tâm huyết, tài năng của mình đầu tư phát triển vì lợi ích của mình và sự phát triển chung của đất nước, dân tộc. Có thể nói, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý, quản trị hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân, vì sự phát triển của quốc gia, dân tộc là nhân tố cốt lõi để kiến tạo động lực niền tin - động lực quan trọng hàng đầu cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Động lực thể chế

Trên thế giới, mỗi quốc gia tương ứng với mỗi mô hình tăng trưởng, trình độ phát triển, phương thức tăng trưởng, phát triển, đều lựa chọn, xây dựng những thể chế phát triển riêng, với mong muốn thúc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Thể chế đóng vai trò chủ yếu kết nối (cấu trúc) tất cả các chủ thể (với vai trò và chức năng khác nhau), các yếu tố, các nguồn lực theo những trật tự (khung pháp lý) xác định, phù hợp với những nội dung phát triển, tạo cơ chế vận hành của cả hệ thống theo những quy luật khách quan, nhằm đạt được mục tiêu phát triển đặt ra. Các nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn trên thế giới đã chỉ ra, chất lượng của thể chế đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia.

Trong hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhưng thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi nhóm các nước kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình (ở mức thấp). Những thành tựu đó một phần cơ bản là nước ta đã chuyển đổi khá thành công từ thể chế kế khoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Thể chế đó đã huy động được các nguồn lực, tạo động lực tăng trưởng nền kinh tế. Tuy nhiên, thể chế phát triển đó về cơ bản là thể chế tăng trưởng, phát triển theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào thâm dụng đất đai, tài nguyên, thâm dụng vốn, lao động giá rẻ, trình độ công nghệ thấp, sản phẩm chủ yếu là chế biến thô và gia công lắp ráp, giá trị gia tăng thấp. Thể chế tăng trưởng, phát triển theo chiều rộng đến nay về cơ bản đã gần hết động lực tăng trưởng, thậm chí xét ở phương diện nào đó đang trở thành lực cản sự phát triển.

 

Khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, đổi mới sáng tạo sẽ là một động lực cơ bản, then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới (Trong ảnh: Sinh viên thực tập trong phòng thí nghiệm tại Trung tâm Nano và Công nghệ, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) _Nguồn: tiasang.com.vn

Bước sang giai đoạn phát triển mới, đất nước đứng trước đòi hỏi khách quan phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, phát triển nhanh, bền vững dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao. Bước ngoặt trong sự phát triển này đòi hỏi phải xây dựng thể chế phát triển mới - thể chế phát triển theo chiều sâu. Thể chế phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào trí tuệ, tri thức, khoa học - công nghệ hiện đại để tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng và phát triển. Điều này liên quan trực tiếp đến nhân tố con người với tư cách là chủ thể - mục tiêu của quá trình phát triển, phải có trình độ cao và chất lượng cao. Động lực tăng trưởng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới không thể chỉ dựa chủ yếu vào phát triển kinh tế. Do đó, sự phát triển theo chiều sâu, đặc biệt là yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường đòi hỏi không chỉ dựa vào nâng cấp và hoàn thiện thể chế kinh tế, mà phải xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển tổng thể, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và hội nhập quốc tế. Trong đó, phải bảo đảm “sự phù hợp và đồng bộ” giữa thể chế chính trị với thể chế kinh tế và thể chế xã hội, theo hướng thể chế chính trị đóng vai trò quyết định trong việc định hướng phát triển, tạo nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm tạo động lực lợi ích cho sự phát triển; còn thể chế phát triển văn hóa, xã hội là hệ điều tiết phát triển xã hội lành mạnh, bền vững; thể chế bảo vệ môi trưởng và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ trở thành nhân tố quan trọng tạo động lực phát triển bền vững… Đặc biệt, trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hiện đại, quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, các quan hệ xã hội ngày càng sâu rộng hơn tại mỗi nước cũng như trên bình diện quốc tế; các mối liên kết hình thành theo cả chiều dọc, chiều ngang và theo mạng. Chính vì vậy, việc xây dựng thể chế liên kết giữa các chủ thể, các yếu tố phát triển trong nước cũng như trên bình diện quốc tế trở thành một nhân tố trọng yếu trong thể chế phát triển hiện đại.

Nhiều ý kiến cho rằng, cải cách thể chế sẽ tạo động lực mạnh nhất đối với sự tăng trưởng, phát triển đất nước. Tháo gỡ những “điểm nghẽn” của thể chế cũ sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng trong ngắn hạn; còn xây dựng đồng bộ thể chế phát triển mới sẽ tạo được động lực tăng trưởng, phát triển trong trung và dài hạn. Cũng có ý kiến cho rằng, “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay là sự bất cập của nền hành chính, năng lực kiến tạo phát triển, hiệu lực và hiệu quả thấp của bộ máy nhà nước. Vì thế cần tập trung cải cách và hiện đại hóa các thể chế cốt lõi của Nhà nước, xây dựng được mối quan hệ hữu cơ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo hướng “Nhà nước mạnh - Thị trường hiệu quả - Xã hội, doanh nghiệp và người dân năng động, sáng tạo”.

Theo PGS, TS. TRẦN QUỐC TOẢN/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều