Đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng

(Mặt trận) - Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm đến vấn đề dân tộc. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận và tiễn sâu sắc, liên quan mật thiết đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của Việt Nam qua các thời kỳ. Trên cơ sở nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, cùng với việc xem xét tình hình, đặc điểm của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đề ra và triển khai hàng loạt chủ trương, chính sách dân tộc, góp phần quan trọng tạo nên sự ổn định, phát triển của các dân tộc. 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi xu hướng liên kết, chia tách quốc gia - dân tộc đã và đang diễn ra mạnh mẽ, khi sự phát triển hài hòa giữa các dân tộc được coi là một trong những động lực cơ bản cho sự phát triển bền vững của các quốc gia, thì việc giải quyết tốt vấn đề dân tộc còn trở thành một nhiệm vụ chiến lược đối với nước ta.

1. Thời kỳ từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1930 - 1945)

Trong cương lĩnh chính trị dầu tiên, đối với vấn đề dân tộc, Đảng ta đã khẳng định: Nhiệm vụ tối cao của cách mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Khẩu hiệu đó đã hiệu triệu được hàng triệu người dân Việt Nam đi theo Đảng, làm cách mạng để giải phóng mình, bởi nó phù hợp với nguyện vọng và khát vọng của các dân tộc.

Tháng 3/1935, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng được triệu tập họp ở Ma Cao - Trung Quốc, các nghị quyết của Đại hội đều có nói đến vấn đề dân tộc với ba nội dung: sinh hoạt kinh tế, chính trị và xã hội của nhân dân các dân tộc.

Tháng 2/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh miền núi phía bắc từ Pắc Bó đến Tân Trào - quê hương của nhiều dân tộc sinh sống. Hồ Chủ tịch, Đảng và cách mạng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ ân tình của đồng bào dân tộc các tỉnh miền núi phía Bắc, bởi lẽ họ tin rằng Bác Hồ, Đảng và cách mạng sẽ mang lại ánh sáng, giải thoát cho họ khỏi cuộc đời nô lệ tối tăm.

Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình - Cao Bằng). Trong số 34 chiến sĩ đầu tiên ấy, có tới 30 người là người dân tộc thiểu số. Họ đã được học tập, rèn luyện và trở thành những tướng lĩnh quân sự của cách mạng. Tiêu biểu nhất là đồng chí Hoàng Văn Thụ, người dân tộc Tày - một trong những nhà chính trị xuất sắc của Đảng ta.

Nhằm mục đích chống đế quốc Pháp và giải phóng dân tộc, từ 1930 - 1945, Đảng ta đã thành lập được nhiều mặt trận trên cơ sở tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Chính các mặt trận này đã tạo nên một khối thống nhất, có sức mạnh to lớn, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sự toàn thắng của cách mạng và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc ở Việt Nam, trong đó có các dân tộc thiểu số anh em.

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngay từ khi ra đời, trong Hiến pháp đầu tiên (1946), đã khẳng định: “Các dân tộc thiểu số được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”. Điều đó cho thấy Nhà nước không những công nhận sự tồn tại của các dân tộc mà còn khẳng định sự bình đẳng về lợi ích và nghĩa vụ của tất cả các dân tộc. Chính điều này đã tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để đồng bào tin tưởng và ủng hộ cách mạng.

2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

Trước những hành động khiêu khích thể hiện dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “… Bất kỳ người đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc”. Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ấy đã được truyền đi khắp đất nước. Hưởng ứng và được tiếp thêm sức mạnh từ lời hiệu triệu đó, nhân dân các đân tộc thiểu số đã cùng với đồng bào cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sơn Dương, Định Hoá được chọn làm “thủ đô kháng chiến”. Những chiến khu Việt Bắc, chiến khu D, miền Đông Nam Bộ đã trở nên phát triển vững mạnh nhờ có sự ủng hộ của đồng bào dân tộc thiểu số.

Trên cơ sở thực hiện chính sách dân tộc có hiệu quả của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta đã giành dược nhiều thắng lợi quân sự quan trọng, tiêu biểu là chiến dịch Biên giới - Thu Đông 1950. Những thắng lợi đó, ngoài vai trò của yếu tố quân sự thì còn phải kể đến sự ủng hộ, giúp sức của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đồng bào các dân tộc đã cùng với toàn thể dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, sinh ra cho dân tộc những tấm gương anh hùng tiêu biểu như Bế Văn Đàn, La Văn Cầu (dân tộc Tày), anh hùng Núp (dân tộc Ba Na)…

Tháng 8/1952, Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn dề dân tộc có khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng tương trợ để giúp nhau tiến bộ về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá”. Đây là chính sách dân tộc toàn diện đầu tiên của Đảng ta, phù hợp với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng. Nhờ có một chính sách toàn diện như vậy, Đảng ta đã tập hợp được toàn thể dân tộc trong đó có các dân tộc thiểu số anh em cùng hướng vào mục tiêu chung là đánh đuổi thực dân Pháp trong trận quyết chiến lịch sử tại Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng là thành quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn thể dân tộc (1946-1954) và là niềm tự hào của dân tộc anh em vùng Tây Bắc.

3. Thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)

 Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 15 (13/01/1959) đã xác định con đường cách mạng miền Nam: Phải kết hợp giữa 3 mũi giáp công là chính trị, quân sự, binh vận, kết hợp 3 vùng là đô thị, đồng bằng, miền núi. Theo tinh thần của Nghị quyết, miền núi là địa bàn chiến lược quan trọng và các dân tộc thiểu số là lực lượng cách mạng to lớn.

Ngày 10/09/1960, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đã họp và đề ra nhiệm vụ, đường lối của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó đề cập tới vấn đề dân tộc: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em. Đảng và Nhà nước ta cần phải có kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hoá ở miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như trong nhân dân cần khắc phục tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội” (1).

Từ 1960-1975, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra hàng loạt các Nghị định về vấn đề dân tộc, trong đó có:

+ Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 133/CP ngày 29/09/1961 về quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Dân tộc

+ Nghị quyết của Bộ Chính trị số 53-NQ/TW ngày 9/5/1962 về công tác Mặt trận Dân tộc thống nhất.

+ Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 34/CP ngày 5/3/1968 về việc sửa đổi tổ chức bộ máy của Uỷ ban Dân tộc.

+ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số 109/CP ngày 19/6/1973 về một số chính sách cụ thể đối với đồng bào các dân tộc vùng cao.

+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/12/1974 về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng có chỉ rõ: “Các ngành có trách nhiệm tích cực giúp đỡ và hướng dẫn miền núi phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố mọi mặt theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 và lần thứ 22 của Trung ương. Các đảng bộ ở miền núi phải tích cực lãnh đạo phát triển sản xuất, xây dựng và củng cố hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã lâm nghiệp, đào tạo cán bộ người dân tộc, xây dựng cơ sở Đảng, giáo dục, lãnh đạo nhân dân và cán bộ đoàn kết, hăng hái tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống mới, làm tốt nghĩa vụ với Tổ quốc” (2).

+ Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới (29/9/1975), Đảng ta khẳng định: “Ở miền Nam, các dân tộc thiểu số sống trong các vùng chiến lược quan trọng đã từng tham gia đấu tranh cách mạng lâu đời, nhưng đời sống vật chất và văn hoá còn thấp kém. Phải có những chủ trương, chính sách đi đôi với nhiều biện pháp tích cực để cuộc sống sức khoẻ, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc. Giữ vững trật tự trị an, kiên quyết bảo vệ đồng bào, trấn áp bọn phản động, bọn thổ phỉ phá hoại và gây rối. Ra sức đoàn kết và thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng giữa các dân tộc” (3).

Có thể thấy rằng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta được khẳng định là một bộ phận khăng khít của chiến lược xây dựng, bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính sách này đã tiếp tục đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, động viên các dân tộc thiểu số anh em ở mỗi miền thực hiện nhiệm vụ của mình. Ở miền Bắc, các dân tộc thiểu số cùng toàn thể nhân dân miền Bắc tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến tranh phá hoại, leo thang của giặc Mỹ, xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền Nam, các dân tộc thiểu số đã sát cánh cùng người Kinh cống hiến sức lực, xương máu để làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là thắng lợi chung của toàn thể dân tộc, trong đó có các dân tộc thiểu số anh em, là thắng lợi của chính sách dân tộc đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta trong suốt 21 năm chống Mỹ cứu nước.

4. Thời kì xây dựng và bảo vệ đất nước đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ năm 1975 đến nay

Ngay sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Ban Bí thư Trung ương đã họp, có một số ý kiến về công tác dân tộc trong tình hình mới: “Ngày nay, Nhà nước đã thống nhất. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Đó là nguồn sức mạnh và là nguyên tắc cao nhất, dù Kinh hay Thượng, dù người dân tộc ở vùng này hay vùng khác trước hết đều là người Việt Nam ở trong Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Phải tiếp tục thực hiện phương hướng công tác dân tộc đã được xác định trong nội quy Đại hội Đảng lần thứ 3, thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, động viên đồng bào dân tộc trong cả nước tham gia tích cực vào việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, chống lại mọi âm mưu chia rẽ các dân tộc của đế quốc và bọn tay sai của chúng. Trong giai đoạn mới, phải sớm có những chủ trương, chính sách, đi đôi với những biện pháp tích cực để chăm sóc sức khoẻ, cải thiện đời sống văn hoá của đồng bào các dân tộc”(4).

Phát triển thêm một bước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đã đề ra chính sách dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam… Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá bỏ tận gốc những chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (5).

Các nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V và VI của Đảng đã đặt ra vấn đề đổi mới và thực hiện chính sách dân tộc. Điều này được cụ thể hoá trong Nghị quyết 22 - NQTW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và Quyết định 72-HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng đề ra những chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đặc biệt Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đẩy mạnh ba cuộc cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đòi hỏi tăng cường công tác nghiên cứu về dân tộc và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ thể hoá và thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm, rập khuôn hoặc chủ quan áp đặt những hình thức tổ chức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng dân tộc. Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào trước hết ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến. Trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số phải thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ tập thể; kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống con người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ. Kế hoạch đưa đồng bào miền xuôi lên miền núi thực hiện sự phân bố lại lao động xã hội trên phạm vi cả nước, cần bao gồm cả kế hoạch hình thành cơ cấu giai cấp xã hội mới của vùng các dân tộc. Thực hành những hình thức, biện pháp thích hợp thu hút đồng bào các dân tộc tại chỗ tham gia quá trình phát triển kinh tế với tư cách là người làm chủ thật sự bình đẳng. Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc, sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc và tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi” (6).

Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vào việc thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kì thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Một số chính sách cụ thể là:

“… Trung du và miền núi chuyển sang kinh tế hàng hoá, phát huy thế mạnh về lâm nghiệp. Hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn công nghiệp với chế biến, phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Huy động mọi nguồn lực tại chỗ và cả nước đi đôi với tranh thủ viện trợ quốc tế nhằm sử dụng triệt để và có hiệu quả đất trống, đồi trọc. Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, đảm bảo lợi ích của các dân tộc. Đẩy mạnh việc khai thác khoáng sản và thuỷ năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế như than ở Đông Bắc, hoá chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và Trung du phía Bắc, thuỷ điện và khai khoáng ở Tây Nguyên.

Đối với miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương… để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội... Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.

Có chính sách phát triển hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn trọng tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc. Đặc biệt có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít người… Có chính sách đăc biệt để phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng và nâng cao chất lượng các trường, lớp nội trú, coi trọng việc đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc”(7).

Như vậy đến Đại hội VII, chính sách dân tộc được Đảng ta nâng lên tầm cao mới. Điều này cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện hơn trong Hiến pháp 1992: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá tót đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”(8).

Vấn đề dân tộc được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng Luật Dân tộc từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc thực hiện cho dược 3 mục tiêu chủ yếu: xoá được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khoẻ của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xoá được mù chữ, nâng sao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của các cấp trong sạch và vững mạnh” (9).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tổng kết và cụ thể hoá chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc” (10).

Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới… Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc” (11).

Đây là luận điểm rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.

Trên thực tế, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu sống tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới nên đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Tình trạng trên không những làm cho dân tộc thiểu số khó vươn lên hòa nhập cùng với sự phát triển chung của cả nước, mà còn tạo ra khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, tiềm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là khi bị các thế lực thù địch lợi dụng. Do đó, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc, coi việc giải quyết vấn đề dân tộc vừa là vấn đề giai cấp, miền núi, biên cương, an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, vừa là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bài học của nhiều nước trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX cho thấy nếu coi nhẹ và không xác định đúng vị trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển đất nước thì tất yếu dẫn đến xung đột dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong quốc gia.

Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Văn kiện Đại hội XI chỉ rõ: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” (12). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”(13). Những quan điểm trên thể hiện sự quan tâm ngày càng sâu sát, cụ thể và rất thiết thực của Đảng đối với chính sách dân tộc - một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”(14). Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về mặt khái niệm, đại đoàn kết toàn dân tộc được hiểu là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, tôn giáo… bao gồm cả bộ phận định cư ở nước ngoài. Đoàn kết các dân tộc là đoàn kết các thành phần dân tộc trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết các dân tộc trong giai đoạn mới là nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (15).

Đảng ta chủ trương, muốn xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc” (16).

Đảng ta đặt ra yêu cầu: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc giúp cùng nhau phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung” (17).

So với Đại hội XI, điểm mới của Đại hội XII là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.

Để thực hiện được phương châm trên, Văn kiện Đại hội XII đã kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, có bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.

Gần đây, trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, khi tổng kết tình hình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Đảng ta khẳng định: “Hệ thống chính sách dân tộc được hoàn thiện, đầy đủ hơn và đã tích hợp một số chính sách, bảo đảm bao phủ toàn diện các lĩnh vực và phân cấp triệt để cho các địa phương tổ chức thực hiện. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đực cải thiện” (18). Tuy nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn thừa nhận: “Mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn. Giảm nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi thiếu bền vững. Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số như di cư tự do, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… chưa được giải quyết hiệu quả” (19)

 Đảng ta tiếp tục thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề bình đẳng trong khối đại đoàn kết các dân tộc: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc… Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin và bảo đảm quyền được thông tin và tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” (20); “Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và giữa các giai tầng xã hội” (21).

Như vậy có thể thấy rằng nếu như trong thời chiến, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần cách mạng của đồng bào dân tộc thiểu số kháng chiến, làm nên thắng lợi lịch sử của dân tộc thì trong thời kì đổi mới, chính sách ấy có ý nghĩa củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra khối sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ổn định tình hình an ninh, chính trị của đất nước.

  

Như vậy, chính sách dân tộc ở Việt Nam là cụ thể hoá quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc. Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng nhằm khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ đời sống nhân dân các dân tộc, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xoá đói giảm nghèo, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nguyên tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Các nội dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Với mỗi một thời kỳ lịch sử, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước lại được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Tuy vậy, vấn đề dân tộc còn là một vấn đề “nhạy cảm”, không ít nội dung đang đặt ra không phải một sớm một chiều có thể giải quyết được. Chính sách dân tộc phải hướng đến mục tiêu cuối cùng là xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc sống trên cùng một lãnh thổ. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp và cũng là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo:

(1),(2),(3),(4),(5).Văn kiện Đảng và Nhà nước về cuộc sống dân tộc từ 1960-1977, Nxb. Sự thật, 4/1978, tr. 1,30,39,39,44

(6). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 102 - 103

(7). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb. Sự thật, 4/1991, tr.77

    (8). Hiến pháp 1992, Nxb. Sự thật, 4/1992, tr.14

(9). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, 4/1996, tr. 125

(10). Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, 4/2005, tr. 670-671.

(11). Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.121 - 122

(12). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.244.

(13). Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

(14), (15), (16), (17). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.164, 158, 159, 164 

(18), (19), (20), (21). Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIII của Đảng, tháng 2/2020, tr. 94, 99, 78, 115.

ThS. Tạ Thị Mỹ Linh - Trường Đại học Xây dựng

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều