Vấn đề hoàn thiện pháp luật về MTTQ Việt Nam tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND

(Mặt trận) - Tóm tắt: Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp (2016 - 2021) sắp kết thúc. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền đang gấp rút chuẩn bị các điều kiện để tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trước hết là vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội.

Một trong những biểu hiện cụ thể nhất vai trò “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân” (Điều 9 Hiến pháp năm 2013) chính là các quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” (Điều 4). Luật dành Chương V gồm 27 điều quy định về ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, trong đó có 12 điều quy định về hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác bầu cử.

Ở nước ta, trước mỗi kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Quốc hội đều tiến hành sửa Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (từ năm 2011 gộp chung thành một luật là Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân). Sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung, quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ngày càng hoàn thiện. Không những thế, vấn đề hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử còn được quy định chi tiết tại các nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành (sau đây gọi tắt là Luật Bầu cử) được coi là khá hoàn thiện. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, liên quan đến công tác hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số quy định pháp luật còn chưa phù hợp với thực tiễn cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, một số nội dung sau đây:

Về bản sơ yếu lý lịch của người ứng cử

Theo Luật Bầu cử hiện hành, hồ sơ ứng cử bao gồm nhiều loại (đơn ứng cử, sơ yếu lý lịch, ảnh chân dung, bản kê khai tài sản, thu nhập…). Theo đó, sơ yếu lý lịch của người ứng cử phải có “chứng nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền” (khoản 2 Điều 35 Luật Bầu cử). Trong thực tiễn, việc xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền vào sơ yếu lý lịch của những người được giới thiệu ứng cử thì về cơ bản không có vướng mắc. Tuy nhiên, với người ứng cử là chủ doanh nghiệp tư nhân, chức sắc tôn giáo... thì thông thường người ký tên đóng dấu vào bản sơ yếu lý lịch của người ứng cử là cấp phó của người đó hoặc bộ phận tổ chức, văn phòng của doanh nghiệp, cơ sở tôn giáo đó, dẫn đến có sự thiếu yên tâm, tin cậy vào sự trung thực của hồ sơ của người ứng cử khi Mặt trận tổ chức hiệp thương. Và trong thực tế, một số người sau khi trúng cử mới bị phát hiện trước đó đã vi phạm pháp luật hoặc không trung thực trong kê khai hồ sơ, dẫn đến bị bãi nhiệm hoặc bị xóa tên (Khóa XIII, Quốc hội bãi nhiệm một đại biểu sau một năm làm đại biểu; Khóa XIV, Hội đồng bầu cử quốc gia xóa tên hai người ngay sau khi có kết quả trúng cử đại biểu Quốc hội). Trước tình hình đó, trong một số cuộc hội thảo có ý kiến cho rằng, cần quy định “cứng” trong Luật là chỉ có chính quyền cấp xã nơi người ứng cử cư trú mới có quyền xác nhận vào sơ yếu lý lịch của người ứng cử hoặc cần quy định cụ thể “cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền” là như thế nào để tránh việc áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa những người ứng cử, đồng thời đề cao tính trung thực, chịu trách nhiệm trước pháp luật của người ứng cử thì nên bỏ vấn đề xác nhận vào sơ yếu lý lịch mà chỉ cần bản tự khai của họ là được, nếu họ trúng cử mà sau này phát hiện có sự thiếu trung thực thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật (cơ chế hậu kiểm). Trong tình hình ở nước ta hiện nay, cần có quy định xác nhận vào sơ yếu lý lịch của người ứng cử và đồng ý với việc chỉ giao cho một đầu mối duy nhất được quyền xác nhận là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người ứng cử cư trú.

Về chứng nhận sức khỏe, ý thức chấp hành pháp luật của người ứng cử

Luật Bầu cử hiện hành không quy định hồ sơ ứng cử phải có “giấy chứng nhận sức khỏe”. Thực tế một số khóa Quốc hội vừa qua, có người sau khi trúng cử đã từ trần mà chưa kịp dự phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên; có đại biểu mắc bệnh hiểm nghèo qua đời giữa nhiệm kỳ; có đại biểu ốm nặng phải điều trị dài ngày gần như cả nhiệm kỳ… Bên cạnh đó, theo phản ánh của các địa phương, trong một số cuộc bầu cử vừa qua có một số người nộp đơn tự ứng cử (cả Quốc hội và Hội đồng nhân dân) có biểu hiện thần kinh không bình thường có thể nhận biết bằng mắt thường, nhưng cơ quan chức năng không có cơ sở pháp lý để từ chối nhận đơn, vì thế vẫn phải tiến hành đầy đủ các quy định để tổ chức hiệp thương, gây nên những khó khăn không cần thiết trong quá trình tiến hành cuộc bầu cử. Mặc dù Luật Bầu cử hiện hành đã quy định “người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự” thì thuộc trường hợp người không được ứng cử, nhưng cần thiết phải cụ thể hóa quy định đó thành một giấy chứng nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức hiệp thương giới thiệu người ứng cử.

Cũng trong một số cuộc bầu cử vừa qua, không chỉ người tự ứng cử mà ngay cả một số người được giới thiệu ứng cử đã bị phát hiện có vi phạm pháp luật từ trước đó. Điều đáng nói ở chỗ, nếu trong quá trình tổ chức hiệp thương mà phát hiện ra (chủ yếu thông qua đơn thư khiếu nại, tố cáo và được cơ quan có thẩm quyền xác minh, kết luận) thì đương nhiên Mặt trận có cơ sở để không đưa vào danh sách chính thức, nhưng đáng tiếc một số trường hợp đã trúng cử rồi mới bị phát hiện dẫn đến bị xóa tên hoặc bị bãi nhiệm như đã nêu ở trên.

Trước tình hình đó, nhiều ý kiến đề nghị cần bổ sung vào hồ sơ ứng cử các chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền về tình trạng sức khỏe và về tình hình chấp hành pháp luật của người ứng cử. Chứng nhận về “sức khỏe” nêu ở đây là sức khỏe về tâm thần, tức là “bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự” chứ không phải về thể chất. Những người khuyết tật về thể chất hoàn toàn có thể trở thành đại biểu Quốc hội như ở một số quốc gia nếu có sự hỗ trợ tốt từ cộng đồng và các cơ quan chức năng. Cũng có ý kiến đề xuất nên tổ chức khám sức khỏe cho những người ứng cử đại biểu Quốc hội ngay từ khi nộp hồ sơ ứng cử. Theo đó, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự và người mắc các bệnh hiểm nghèo thì sẽ không được ứng cử. Việc chứng nhận về chấp hành pháp luật của người ứng cử có thể thực hiện bằng phiếu “Lý lịch tư pháp” do sở Tư pháp nơi người ứng cử cư trú và làm việc thường xuyên cấp.

Việc đề xuất thêm các giấy tờ nêu trên trong hồ sơ ứng cử có thể sẽ thêm một số giấy tờ, thủ tục hành chính nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan nhà nước hữu quan có thể yên tâm hơn khi xem xét lựa chọn một người nào đó để giới thiệu ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước.

Về nơi nộp hồ sơ ứng cử

Trong thực tế, việc người ứng cử (bao gồm người tự ứng cử và người được giới thiệu ứng cử) nộp hồ sơ ứng cử ở đâu thời gian qua ở một số nơi đã trở thành vấn đề, nhất là với người tự ứng cử.

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định: “Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở địa phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử thì nộp hồ sơ tại Ủy ban bầu cử nơi mình ứng cử” (khoản 2 Điều 28). Theo Điều 13 của Luật này thì Ủy ban bầu cử là ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các lần sửa đổi trong các năm 2001 và năm 2010 quy định này vẫn giữ nguyên. Chính vì thế trong các cuộc bầu cử trước Quốc hội khóa XIV thì người tự ứng cử đại biểu Quốc hội nộp hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử cấp tỉnh. Tuy nhiên, Luật không quy định rõ “tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” là nơi người đó đang làm việc, nơi người đó có cư trú hay nguyên quán của người đó, mà chỉ quy định “tại Ủy ban bầu cử nơi mình ứng cử”. Như vậy, quy định này có tính chất tùy nghi, dành cho người tự ứng cử được quyền lựa chọn nơi nào có thể thuận lợi cho mình để nộp hồ sơ ứng cử. Điều này dẫn đến tình trạng một số người dù đã không còn ở nguyên quán của mình từ rất lâu, đã cư trú, làm việc, có hộ khẩu thường trú ở một địa phương khác nhưng lại nộp hồ sơ ứng cử ở nơi nguyên quán của mình. Bên cạnh đó, một số người lại nộp hồ sơ ứng cử ở nơi mình đang cư trú hoặc đang làm việc (Quốc hội khóa XII có một người tự ứng cử cư trú và làm việc ở thành phố Hà Nội nhưng nộp hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử tỉnh Nghệ An và đã trúng cử; trong số các đại biểu Quốc hội khóa XIII là người tự ứng cử đã trúng cử thì có một người nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, nhưng nộp hồ sơ ứng cử ở nơi mình cư trú và làm việc là Ủy ban bầu cử thành phố Hà Nội; có 2 người đang cư trú và làm việc ở thành phố Hà Nội nhưng lại nộp hồ sơ ứng cử ở nguyên quán của mình là Ủy ban bầu cử tỉnh Nghệ An).

Do pháp luật quy định việc nộp hồ sơ ứng cử ở “Ủy ban bầu cử nơi mình ứng cử” như trên đã phân tích cho nên trong thực tế các địa phương đã có sự áp dụng không thống nhất, có nơi ủng hộ, tạo điều kiện, có nơi gây khó khăn cho người tự ứng cử. Vì thế, khi Quốc hội khóa XIII tiến hành sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân để chuẩn bị cho bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kiến nghị sửa đổi quy định này. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 đã quy định: “Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế ở địa phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử nộp hai bộ hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử ở tỉnh nơi mình cư trú hoặc công tác thường xuyên” (khoản 1 Điều 36). Bằng quy định này, những tưởng vấn đề nộp hồ sơ ứng cử ở đâu đã được xử lý dứt điểm. Tuy nhiên trong thực tế lại không hẳn như vậy.

Như vậy, vấn đề đặt ra là quy định của Luật Bầu cử như thế đã chặt chẽ chưa, có bị lạm dụng để “lách luật” không? Chúng tôi cho rằng là có thể có. Quy định “nơi cư trú thường xuyên”, “nơi công tác thường xuyên” mang tính ước lệ, tùy nghi rất cao. Vì thế, tới đây cần xem xét để sửa đổi, bổ sung quy định về nơi nộp hồ sơ ứng cử rõ ràng hơn để thuận tiện trong quá trình thực hiện.

Về vấn đề này có ý kiến cho rằng, Quốc hội là của cả nước, đại biểu Quốc hội là đại diện cho cử tri cả nước, vì thế không nên quy định người ứng cử (trong đó có người tự ứng cử) phải nộp hồ sơ ứng cử ở nơi mình cư trú hoặc làm việc thường xuyên mà cho phép họ có quyền nộp hồ sơ ứng cử ở bất cứ địa phương nào nếu thấy thuận lợi cho việc ứng cử cũng như thực hiện nhiệm vụ đại biểu của họ nếu trúng cử. Tuy nhiên, là người đã có thời gian tham gia công tác này, tôi hiểu lý do của quy định này là nhằm hai mục đích: Thứ nhất, quy định người ứng cử chỉ được nộp hồ sơ ứng cử tại Ủy ban bầu cử cấp tỉnh nơi người đó cư trú hoặc làm việc thường xuyên nhằm tạo thuận lợi cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trong quá trình tổ chức hiệp thương giới thiệu người đó ứng cử (phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc tìm hiểu, xác minh về tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử; tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú, nơi làm việc đối với người ứng cử... mà nếu người đó ở nơi khác thì sẽ hết sức khó khăn); Thứ hai, quy định này giúp cho người đó (nếu trúng cử) có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu đối với cử tri nơi mình ứng cử, tránh việc đại biểu cư trú, làm việc ở một nơi nhưng địa bàn ứng cử ở một nơi khác sẽ có nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu cũng như thực hiện việc giám sát của cử tri và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với đại biểu theo quy định.

Về quy định những trường hợp không được ứng cử

Luật Bầu cử hiện hành (Điều 37) quy định 5 trường hợp không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Đây là vấn đề khá nhạy cảm vì đụng đến quyền ứng cử của công dân đã được Hiến pháp quy định. Trong các cuộc bầu cử gần đây, Hội đồng bầu cử Trung ương (nay là Hội đồng bầu cử quốc gia) và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường hay nhận được những khiếu nại, tố cáo về các trường hợp không được ứng cử. Thậm chí quy định của Đảng về việc đảng viên không được tự ứng cử hoặc nhận đề cử để ứng cử làm đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân dù đúng với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nhưng trong một số cuộc thảo luận vẫn có đảng viên chưa hài lòng với quy định này.

Quy định về các trường hợp không được ứng cử trong Luật Bầu cử hiện hành về cơ bản không có nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, từ thực tiễn một số cuộc bầu cử vừa qua, nhất là để đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, nhiều ý kiến đề nghị cần nghiên cứu bổ sung một số trường hợp sau đây có thể cũng không được ứng cử: (1) Người đang bị khiếu nại tố cáo về không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập…; (2) Người đang là đối tượng bị cơ quan kiểm tra của Đảng, cơ quan thanh tra của Nhà nước kiểm tra, thanh tra. Thực ra đây là các vấn đề đã xảy ra trong thực tiễn một số cuộc bầu cử trước đây nhưng do chưa có kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền nên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không có lý do để không đưa vào danh sách hiệp thương. Vì thế, có người sau khi trúng cử mới có kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm tra là vi phạm pháp luật và bị xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự dẫn đến phải tổ chức bãi nhiệm tư cách đại biểu. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận trong công tác tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử.

Về hiệp thương giới thiệu người ứng cử

Một trong những điểm đáng lưu ý nổi lên trong các cuộc bầu cử là vấn đề giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội của các cơ quan, tổ chức ở Trung ương. Theo đó, các cơ quan, tổ chức theo cơ cấu được phân bổ đều chỉ giới thiệu duy nhất một người ứng cử. Điều này dẫn đến hệ quả là các hội nghị hiệp thương của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để lựa chọn, giới thiệu người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương ứng cử đại biểu Quốc hội trên thực tế là khá hình thức vì không có sự lựa chọn (đã là lựa chọn thì phải có thêm, có bớt). Trong một số cuộc bầu cử trước đây đã xảy ra hiện tượng đến giai đoạn hiệp thương để lập danh sách chính thức những người ứng cử mới phát hiện có người vi phạm pháp luật phải đưa ra khỏi danh sách, nhưng không thể bổ sung người khác được, vì khi ấy các quy định về thời gian nộp hồ sơ, thời gian lấy ý kiến cử tri không còn nữa. Vì thế, phải chấp nhận để thiếu người ứng cử, dẫn đến thiếu đại biểu Quốc hội khối Trung ương. Để khắc phục tình trạng này, có ý kiến cho rằng cần sửa đổi pháp luật về bầu cử và các văn bản hướng dẫn sao cho với mỗi cơ cấu cần giới thiệu ít nhất hai người ứng cử để Mặt trận hiệp thương lựa chọn lấy một người.

Khi thảo luận, trao đổi về vấn đề này một số ý kiến cho rằng, làm như thế là gây khó khăn cho các cơ quan trung ương và sẽ dẫn tới việc không ai “chịu” ra ứng cử nữa. Nhiều người quan niệm việc mình ứng cử là theo sự phân công của tổ chức, nếu tổ chức không phân công thì mình có muốn cũng không thể ra ứng cử. Quan niệm này là đúng trong thực tế vận hành của bộ máy trong hệ thống chính trị của chúng ta. Tuy nhiên, việc giới thiệu hai người trở lên để ứng cử trong cùng một cơ cấu thì cũng không có gì mâu thuẫn với việc phân công ứng cử. Thậm chí nó còn rất tốt cho công tác hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vì có điều kiện để hiệp thương dân chủ, lựa chọn người tiêu biểu hơn giới thiệu ứng cử. Và khi đã thành quy định, thì việc một người nào đó không được Mặt trận lựa chọn cũng được xem như điều hết sức bình thường.

Vấn đề giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn một tồn tại nữa thuộc về nhận thức cũng cần được nghiên cứu để có những quy định, hướng dẫn nhằm khắc phục những tồn tại trong thực tế, đó là: Mặc dù Luật Bầu cử không quy định các cơ quan, tổ chức chỉ được giới thiệu người đứng đầu ra ứng cử, nhưng tuyệt đại đa số các cơ quan, tổ chức ở Trung ương đều giới thiệu người đứng đầu. Trong khi đó, việc thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu Quốc hội, nhất là việc tham dự các kỳ họp Quốc hội đòi hỏi rất nhiều thời gian mà người đứng đầu các cơ quan, tổ chức khó có thể bố trí để làm tròn nhiệm vụ. Vấn đề không nhất thiết giới thiệu người đứng đầu ứng cử, mà chỉ cần giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đại diện cho cơ quan, tổ chức mình ứng cử đã được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn, trao đổi rất kỹ trong các hội nghị hiệp thương nhưng vẫn có rất ít cơ quan, tổ chức tiếp thu...

Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đang đến gần, hy vọng những vấn đề nêu trên sẽ được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quốc hội nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026, để góp phần tổ chức cuộc bầu cử thật sự dân chủ, tạo điều kiện để cử tri và nhân dân cả nước bầu ra những người xứng đáng, đại diện cho mình trong các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương.

Nguyễn Văn Pha

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, nguyên Phó Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều