Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới

(Mặt trận) - Trong hơn 35 năm qua, cùng với quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đã có nhiều đổi mới, tiến bộ rõ rệt. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã trở thành một nội dung trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cùng với việc nội luật hóa, các công cụ pháp lý quốc tế mà Việt Nam tham gia, hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng tiệm cận hơn với các chuẩn mực quốc tế.
UBTƯ MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến phản biện xã hội đối với Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) 
Một số kết quả đạt được trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thời gian qua

Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của pháp luật đối với sự phát triển đất nước, nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định rõ vai trò, tầm quan trọng của thể chế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị ban hành về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được xem là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng của Đảng định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết xác định mục tiêu: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân,…”. Để đạt mục tiêu đó, Nghị quyết đã đề ra 6 định hướng trong 6 lĩnh vực trọng yếu của đất nước và 2 nhóm giải pháp lớn về xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật với 12 giải pháp cụ thể1.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định tầm quan trọng của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội: “Pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của hệ thống pháp luật “Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội”3.

Thực hiện các chủ trương của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đã đạt được nhiều kết quả tích cực:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện và phát triển4. Hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm luật điều chỉnh. Nhìn chung, pháp luật cơ bản thể chế hoá kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ hai, chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ5. Các văn bản quy phạm pháp luật đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trước khi ban hành. Tính công khai, minh bạch, cụ thể, dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật được nâng lên rõ rệt. Công tác xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới.

Thứ ba, công tác tổ chức thi hành pháp luật được chú trọng. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh kịp thời hơn; công tác giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật bước đầu có chuyển biến tích cực; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển khai đồng bộ hơn với nhiều hình thức phong phú đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng nêu trên, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn có một số tồn tại, hạn chế. Hệ thống pháp luật còn nhiều tầng, nấc, do nhiều cơ quan ban hành với số lượng lớn văn bản dưới luật, nhất là văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ, trong khi đó, còn có lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh, nhất là các quy định pháp luật điều chỉnh, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn; tính khả thi, tính dự báo chưa cao, ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống pháp luật6.

Công tác tổ chức thi hành pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu giải pháp đột phá nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật. Tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh vẫn chưa được khắc phục triệt để. Phương thức, nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật có việc còn hình thức, chưa phù hợp với đối tượng, địa bàn, hiệu quả chưa cao; công tác tự kiểm tra văn bản, giám sát, xử lý văn bản có việc chưa kịp thời, đồng bộ. Ý thức tuân thủ pháp luật trong một số lĩnh vực như giao thông, phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế.

Chủ trương, định hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong tình hình mới

TS.Lê Thành Long, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp.ẢNH: PV

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”7.

Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn công phu, nhất là tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 (Nghị quyết số 48-NQ/TW), định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW) và các chủ trương có liên quan, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.

Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm là “hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật”, đồng thời xác định những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam cụ thể như sau:

Thứ nhất, bám sát mục tiêu và 5 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết, “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

So với các yêu cầu của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 27-NQ/TW không chỉ yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật “thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch” mà còn đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn, đó là yêu cầu bảo đảm tính “dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, ổn định, dễ tiếp cận” của hệ thống pháp luật. Nghị quyết cũng yêu cầu hệ thống pháp luật phải “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo… tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

Thứ hai, "tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật. Hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội với Chính phủ, giữa các bộ, giữa Trung ương và địa phương”.

Thứ ba, “đa dạng hóa nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Xác định đúng, rõ các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật; luật hóa đến mức tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; khắc phục tình trạng luật thiếu tính ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành”.

Thứ tư, “tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật”. “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong công tác xây dựng pháp luật”. Qua đó, bảo đảm tốt hơn tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật ngay trong chính hoạt động xây dựng pháp luật.

Thứ năm, “tiếp tục hoàn thiện cơ chế để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và pháp luật quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ động tham gia, đóng góp vào việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự quốc tế, khu vực. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; giải quyết hiệu quả các xung đột về thẩm quyền và pháp luật giữa Việt Nam và các quốc gia khác, bảo đảm tốt các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam”.

Ngoài ra, Nghị quyết số 27-NQ/TW còn đặt ra những nhiệm vụ cho công tác tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm gắn kết chặt chẽ với xây dựng pháp luật. Theo đó, “tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”. “Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật”. “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật”. “Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả”. “Hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật”. "Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường thi hành pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng liên quan đến lợi ích thiết yếu của người dân; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của người dân, doanh nghiệp”. "Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật…”.

Một số giải pháp cần thực hiện để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong tình hình mới

Thứ nhất, tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc và thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW, Văn kiện Đại hội Đảng8, các Nghị quyết, kết luận9, Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ10 trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Duy trì, đẩy mạnh hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện có hiệu quả việc tiếp nhận và xử lý các thông tin báo chí, dư luận xã hội, cơ quan, tổ chức, người dân, doanh nghiệp phản ánh về văn bản trái pháp luật hoặc có mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn để có phương án xử lý kịp thời.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất việc hoàn thiện quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng phát huy hơn nữa tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật... siết chặt kỷ cương, kỷ luật, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật; khắc phục tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình xây dựng pháp luật.

Thứ tư, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chuyển dần cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật từ mô hình Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật đến với người dân sang mô hình người dân tự tìm hiểu pháp luật là chính; những người thuộc diện chính sách sẽ nhận được sự trợ giúp pháp lý của Nhà nước. Củng cố và mở rộng mạng lưới hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật. Tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, hệ thống hóa, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật. Nghiên cứu cơ chế thống nhất trong xây dựng, quản lý, vận hành các cơ sở dữ liệu pháp luật chính thức của Nhà nước.

Thứ năm, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế về tổ chức thi hành pháp luật. Đảm bảo yêu cầu thực hiện tốt vai trò của Bộ Tư pháp trong thực hiện nhiệm vụ “quản lý nhà nước về thi hành pháp luật”, đặc biệt là về theo dõi thi hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước và công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Xây dựng hệ thống các tiêu chí và phương pháp theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật khoa học, chính xác; quy định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật. Quy định rõ trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm tính kịp thời trong tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về tình hình thi hành pháp luật; chủ động đối thoại với người dân, doanh nghiệp về các quy định của pháp luật để có các biện pháp chỉ đạo, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra. Củng cố, kiện toàn các tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác pháp luật ở các bộ, ngành và chính quyền địa phương bảo đảm tính chuyên sâu, chuyên nghiệp phúc đáp yêu cầu ngày càng cao trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ban hành cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung nhất là trong tổ chức thi hành pháp luật. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm nguồn lực tài chính với tính chất là một nguồn đầu tư của Nhà nước cho hạ tầng pháp lý. Có chế độ, chính sách phù hợp đối với công chức làm công tác xây dựng pháp luật và pháp chế để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí, đảm bảo tài chính để thực hiện hiệu quả quy trình xây dựng pháp luật, nhất là đối với các hoạt động khảo sát thực tiễn, đánh giá tác động kinh tế - xã hội đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Bộ Tư pháp, với chức năng là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, trong thời gian tới sẽ bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, các văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp cụ thể, khả thi nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương.

Chú thích:

1.   Các giải pháp về xây dựng pháp luật: (1) Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật; (2) Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật; (3) Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội; (4) Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật; (5) Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật; (6) Hoàn thiện pháp luật về Công báo; (7) Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật. Các giải pháp thi hành pháp luật: (8) Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn; (9) Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoạt động xét xử của toà án; (10) Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước; (11) Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm công tác pháp luật; (12) Huy động các nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế.

2.  Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr.71-72.

4.  Kết quả tra cứu văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở dữ liệu https://thuvienphapluat.vn/: trong giai đoạn từ 2016 đến hết tháng 6/2022, Quốc hội ban hành 88 Luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 Pháp lệnh; Chính phủ ban hành 764 nghị định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành 4010 thông tư, thông tư liên tịch (riêng số thông tư liên tịch là 107).

5. Chỉ số cải thiện chất lượng các quy định của Việt Nam đã tăng liên tục 2 năm liền (năm 2021: 6 bậc và năm 2022: 10 bậc - nguồn: www.wipo.int/ipstats/en/statistics/country_profile/profile.jsp?code=VN).

6. Báo cáo số 442/BC-CP ngày 1/10/2020 của Chính phủ về “Kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước”.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập II, tr.326-327.

8. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

9. Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

10. Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.

Lê Thành Long

Tiến sĩ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

 

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều