Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Dân là chủ và dân làm chủ” trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân

(Mặt trận) - Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã để lại những di sản vô cùng quý báu, là kim chỉ nam, định hướng cho quá trình xây dựng và đổi mới đất nước. Tư tưởng “Dân là chủ và dân làm chủ” là một trong những di sản quý báu đó. Trong giai đoạn hiện nay, những tư tưởng của Người càng có ý nghĩa sâu sắc, cần được tìm hiểu và vận dụng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
 Ảnh Tư liệu minh họa
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Dân là chủ và dân làm chủ”

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cuộc sống Nhân dân, tôn trọng ý kiến và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Người luôn khẳng định: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1; “Dân là gốc của nước, của cách mạng”3. Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa Nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ. Người coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Với Người:

 “Dễ trăm lần không dân cũng chịu

Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ là: dân là chủ và dân làm chủ. Với quan niệm đó, Người không chỉ đặt Nhân dân lên vị thế chủ thể xã hội, mà còn nói rõ mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời giữa vị thế chủ thể xã hội của Nhân dân với hành động làm chủ xã hội của Nhân dân. Người khẳng định: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”, là lợi ích thiết thực của Nhân dân, là động lực thúc đẩy Nhân dân hành động vì đất nước, vì dân tộc. Với Người, dân chủ là động lực không chỉ cho những thành công của cách mạng giải phóng dân tộc, mà cả cho những thành công trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.

Nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”4, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”5. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số Nhân dân lao động, những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”6.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Mọi cán bộ nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Một nhà nước vì dân phải đảm bảo cho dân có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân. Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân, mà còn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta; đồng thời phải làm cho Nhân dân hiểu rõ: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”7.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, được quản lý bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật và pháp luật chính là “bà đỡ” của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại, hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng, được thực thi trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của Nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dân là chủ và dân làm chủ” trong thời kỳ đổi mới

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dân là chủ và dân làm chủ”, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đề ra phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đúc kết bài học kinh nghiệm: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động".

Tại Đại hội VII, Đảng nêu yêu cầu, phải tổ chức và vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, đóng góp ý kiến với cơ quan nhà nước các cấp xây dựng các quy chế, quy ước phù hợp với luật pháp và chủ trương, chính sách của Nhà nước, tham gia phổ biến pháp luật trong Nhân dân và tổ chức các phong trào quần chúng thực hiện pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Đến Đại hội VIII của Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của Nhân dân thông qua các cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết định.

Tiếp đó, Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân”.

Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”,“Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.

Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”8,“Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”9.

Đặc biệt, quyền dân chủ đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”(Điều 6)...

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”10.

Như vậy, có thể thấy trong toàn bộ đường lối, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sâu sắc quan điểm “Dân là chủ và dân làm chủ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân, đồng thời thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.

Một số giải pháp phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu những phương thức lãnh đạo của Đảng. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy; Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị; Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Trên cơ cở những yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng cần có những đổi mới trong các phương thức lãnh đạo để ngày càng khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo đối với đất nước.

Hai là, tăng cường rà soát, thể chế hóa các chủ trương của Đảng, bổ sung, sửa đổi, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đối với những chính sách, pháp luật có quan hệ trực tiếp tới đời sống Nhân dân, cần lắng nghe ý kiến Nhân dân trước khi quyết định; “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” phải trở thành phương châm vận động quần chúng, đảm bảo mọi chính sách, pháp luật phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Ba là, các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp cần tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo chính sách, pháp luật được thực hiện hiệu quả; tập trung chỉ đạo, điều hành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho Nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính; thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân, tăng cường đối thoại, quan tâm giải quyết những kiến nghị, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, không để phát sinh các điểm nóng, vụ việc phức tạp, kéo dài; nâng cao đạo đức công vụ, chất lượng phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng chính quyền thật sự thân thiện, gần dân, vì dân.

Bốn là, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc theo hướng đi vào thực chất, tăng cường giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp để hoạt động của Mặt trận thực sự là phương thức tốt nhất trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Quan điểm “Dân là chủ và dân làm chủ” được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng cũng như trong lãnh đạo cách mạng nước ta. Người luôn đặc biệt nhấn mạnh vị trí, vai trò của Nhân dân. Với Hồ Chí Minh, Nhân dân chính là động lực, là mục tiêu cho sự phát triển. Do vậy, hơn ai hết, Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống của Nhân dân. Trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong mọi đường lối, chủ trương đều khẳng định “lấy dân làm gốc”. Nhà nước ta cũng luôn coi dân chủ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Chú thích:

1.  Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. tập 8, tr. 276.

2,3,6,7. Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 293, 409-410, 698-700.

4. Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr. 515, 276.

5.  Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 7, tr. 499, 572.

8,9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 169, 170.

10.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr. 173.

Trần Thị Mai - Tiến sĩ, Học viện Ngân hàng

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều