Về xác định đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030

Muốn phát triển và thịnh vượng, Đảng cầm quyền và nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với các mục tiêu, quan điểm và giải pháp tổng thể. Với ý nghĩa đó, đột phá chiến lược phản ánh các lựa chọn ở tầm vĩ mô, có ý nghĩa quyết định, chiến lược. Đồng thời, đột phá chiến lược cũng hàm nghĩa tác động vào các khâu, các vấn đề, nội dung then chốt, cốt lõi để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc xác định “đúng” và “trúng” các khâu đột phá chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hùng cường, hưng thịnh của quốc gia.

 

Xác định “đúng” và “trúng” các khâu đột phá chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hùng cường, hưng thịnh của quốc gia (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tham quan triển lãm trưng bày các sản phẩm về công nghệ) _Ảnh: vietnamplus.vn

Một số cách thức xác định các đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để xác định các đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với những ưu điểm, nhược điểm riêng của từng cách tiếp cận.

Xác định đột phá chiến lược dựa vào mục tiêu ưu tiên.

Xác định đột phá chiến lược theo cách tiếp cận mục tiêu ưu tiên có thể được hiểu là các hoạt động lựa chọn các khâu, nội dung, các vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện thành công các mục tiêu ưu tiên của quốc gia. Nội dung của cách tiếp cận xác định đột phá chiến lược dựa vào mục tiêu ưu tiên là: 1- Xác định các mục tiêu ưu tiên và sắp xếp theo thứ tự các mục tiêu ưu tiên; mục tiêu ưu tiên trong mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau, tuy vậy cần bảo đảm tính nhất quán trong khoảng thời gian thực hiện chiến lược; 2- Xác định các giải pháp tổng thể và các chính sách để thực hiện các mục tiêu ưu tiên; 3- Lựa chọn các giải pháp và chính sách then chốt nhất, quyết định thành công của việc thực hiện mục tiêu. Thực chất, đó là quá trình xác định các đột phá cần phải thực hiện để đạt được các mục tiêu ưu tiên đã đề ra.

Cách tiếp cận này có ưu điểm là: Tính chủ động, khả năng thành công khá cao nếu định hướng và xác định đúng đắn mục tiêu ưu tiên; nguồn lực của nhà nước, xã hội được tập trung giải quyết các mục tiêu trọng tâm, trọng điểm, không phân tán; dễ dàng tạo được sự thống nhất trong nhận thức, hành động của toàn bộ hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này còn có những nhược điểm là: Đột phá chiến lược phụ thuộc vào việc xác định mục tiêu ưu tiên, do vậy, nếu xác định không chính xác mục tiêu ưu tiên, sẽ dẫn tới xác định sai các đột phá chiến lược, gây tổn thất và lãng phí nguồn lực; các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường khi bắt buộc phải sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, thường dễ vấp phải sự phản ứng tiêu cực từ các nhóm có quan điểm, lợi ích khác nhau...

Xác định đột phá chiến lược dựa vào khắc phục các “điểm nghẽn”.

Trong quản lý, “điểm nghẽn” được hiểu là một hoặc một số điểm gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, làm suy yếu, hoặc ngưng trệ một phần, thậm chí hoàn toàn sự phát triển; là những “nút thắt” cản trở sự vận hành bình thường của một nền kinh tế. “Điểm nghẽn” có thể tiếp cận xác định theo các cách khác nhau, như “điểm nghẽn” về nguồn lực; “điểm nghẽn” về thể chế, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển các ngành kinh tế; “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển của mỗi thị trường và toàn thị trường; “điểm nghẽn” cản trở hoạt động và sự phát triển của các doanh nghiệp... “Điểm nghẽn” trong ngắn hạn là dạng tắc nghẽn xuất hiện do các vấn đề tạm thời gây ra, có khả năng xử lý và sửa chữa ngay. “Điểm nghẽn” trong dài hạn là dạng tắc nghẽn xuất hiện liên tục, gây cản trở tới hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn, khó khắc phục và cải thiện trong ngắn hạn.

Tiếp cận xác định đột phá chiến lược dựa vào khắc phục các “điểm nghẽn” là xác định các giải pháp để tháo gỡ các khó khăn, phá bỏ các rào cản, các cản trở do các “điểm nghẽn” đó gây ra, từ đó, khơi thông “điểm nghẽn” và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Các bước xác định đột phá chiến lược theo cách tiếp cận “điểm nghẽn”: 1- Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế, nhìn theo nhiều khía cạnh để xác định các điểm yếu cơ bản mà nếu không được khắc phục, nền kinh tế sẽ không đạt được mục tiêu chiến lược; 2- Xác định hệ thống các nguyên nhân của các “điểm yếu cơ bản”, từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp; 3- Từ hệ thống giải pháp, lựa chọn các giải pháp có khả năng tác động tích cực lớn nhất đến các nguyên nhân.

Ưu điểm của cách tiếp cận là: Dễ dàng nhận biết được các “điểm nghẽn” trong hoạt động kinh tế - xã hội dựa vào quan sát hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, qua phản hồi của thị trường, của doanh nghiệp và của các nhà đầu tư. Phản ứng của thị trường, nhà đầu tư, doanh nghiệp về các “điểm nghẽn” thường khá quyết liệt, tạo ra áp lực đòi hỏi nhà nước phải xử lý nên các giải pháp mang tính đột phá để giải quyết các “điểm nghẽn” thường sát thực, có tính khả thi. Các đột phá chiến lược thường cụ thể, nhắm vào giải quyết các vấn đề bức xúc, các trở ngại đang diễn ra trên thực tế.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này lại có các nhược điểm là: Cách tiếp cận bị động, nhà nước ở tâm thế ứng phó trong giải quyết các bất cập, các rào cản trong thực tiễn; xác định các “điểm nghẽn” trong dài hạn thường gặp thách thức rất lớn, đòi hỏi khả năng dự báo, tầm  nhìn chiến lược, trong khi đó, tăng trưởng bền vững của nền kinh tế không chỉ phụ thuộc vào những giải pháp mang tính ngắn hạn mà còn phụ thuộc vào các yếu tố mang tính dài hạn.

Xác định đột phá chiến lược dựa vào các động lực phát triển.

Theo cách tiếp cận này, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn đột phá chiến lược là một trong số các động lực cho tăng trưởng và phát triển của một quốc gia. Các bước xác định đột phá chiến lược theo cách tiếp cận dựa vào động lực phát triển bao gồm: 1- Xác định đúng các yếu tố là động lực phát triển cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đây là cơ sở để xác định đột phá chiến lược. Có nhiều căn cứ để xác định: Dựa vào một/một số thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; dựa vào các nguồn lực vật chất, phi vật chất; dựa vào vùng kinh tế; dựa vào nội lực; 2- Để đánh giá chính xác yếu tố nào là động lực, có thể căn cứ vào mức độ đóng góp của các yếu tố này cho phát triển kinh tế - xã hội, như mức độ đóng góp vào tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP), tạo ra việc làm, nâng kim ngạch xuất khẩu...

Ưu điểm của cách tiếp cận này là: Thường tạo ra xung lực khá lớn, kích hoạt vào các điểm trọng yếu và thường tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, vượt trội, bùng nổ đối với một quốc gia; sự phát triển của các khu vực, lĩnh vực, vùng động lực có tác động lan tỏa đến các lĩnh vực khác. Các động lực thường dễ nhận biết thông qua các chỉ số kinh tế - xã hội mà các động lực tạo ra, như đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo thu nhập, việc làm cho xã hội, khả năng lan tỏa, tác động tích cực và hỗ trợ cho các khu vực còn lại.

Nhược điểm của cách tiếp cận này là: Có xu hướng dành nhiều nguồn lực, cơ chế, chính sách ưu đãi, vượt trội cho các khu vực có tiềm năng phát triển, có thể tạo ra sự chênh lệch khá lớn trong phát triển giữa các vùng, miền, các khu vực; gặp khó khăn khi thuyết phục cũng như đạt được sự đồng thuận của các nhóm dân cư, nhà quản lý về việc ưu tiên nguồn lực và cơ chế, chính sách nhiều hơn, tốt hơn, vượt trội hơn cho các vùng, khu vực, lĩnh vực, ngành được coi là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; sự phát triển chênh lệch giữa các khu vực dễ ảnh hưởng tới tính công bằng.

Xác định đột phá chiến lược dựa vào lựa chọn phương thức phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp cận dưới góc độ nguồn lực, phương thức phát triển kinh tế - xã hội là cách thức sử dụng các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, có một số phương thức phát triển, như phương thức phát triển dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và vốn đầu tư, tương ứng với đó là một nền kinh tế với cơ cấu tập trung chủ yếu vào các ngành thâm dụng tài nguyên, vốn và lao động giá rẻ; phương thức phát triển dựa vào năng suất lao động, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, tương ứng với đó là một nền kinh tế với cơ cấu tập trung chủ yếu vào các ngành thâm dụng tri thức, công nghệ.

Các bước xác định khâu đột phá chiến lược dựa vào phương thức phát triển kinh tế - xã hội: 1- Xác định rõ phương thức phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong một thời kỳ nhất định căn cứ vào điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hội, triết lý phát triển; 2- Xác định đột phá chiến lược gắn với phương thức phát triển đã lựa chọn.

Cách tiếp cận dựa vào lựa chọn phương thức phát triển kinh tế - xã hội có các ưu điểm làGắn kết chặt chẽ, bám sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, gắn với mô hình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia; là cách tiếp cận chủ động, có mục tiêu, mục đích rõ ràng và bảo đảm được tính đồng bộ với các mục tiêu, giải pháp phát triển tổng thể của quốc gia.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này có nhược điểm là: Khó xác định những nội dung cụ thể thực hiện đột phá mà chỉ xác định định hướng đột phá chiến lược chung; lựa chọn phương thức phát triển kinh tế - xã hội mang tính chủ quan, duy ý chí, thậm chí chịu ảnh hưởng của quan điểm chính trị nên có thể không phù hợp, không hiệu quả.

Xác định đột phá chiến lược dựa vào cơ hội, thách thức.

Các quốc gia muốn đột phá chiến lược trong tăng trưởng và phát triển phải khai thác được cơ hội và vượt qua các thách thức. Các bước xác định đột phá chiến lược dựa vào cơ hội, thách thức: 1- Làm rõ những cơ hội và thách thức phải đối mặt trong trung và dài hạn, đặc biệt là những cơ hội do bối cảnh quốc tế tạo ra, như toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp, các tiến bộ khoa học - kỹ thuật,... 2- Lựa chọn những ngành, lĩnh vực, những nội dung đột phá nhằm khai thác tốt nhất những cơ hội để vươn lên, hạn chế thách thức.

Ưu điểm của cách tiếp cận này là: Cơ hội và thách thức thường là các vấn đề mới, tận dụng được cơ hội sẽ mở ra bước ngoặt mới cho phát triển, vượt qua các thách thức sẽ tạo tiền đề cho các bước phát triển trong tương lai. Do gắn với những xu thế của thời đại, các vấn đề cấp bách, sát thực và hiện hữu nên cách tiếp cận này thường dễ đạt được đồng thuận từ việc đề xuất đột phá cho tới tổ chức thực hiện.

 

Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư _Ảnh: Tư liệu

Tuy nhiên, nhược điểm của cách tiếp cận này là: Cơ hội và thách thức chỉ là yếu tố bối cảnh bên ngoài và chỉ là một trong những cơ sở xác định đột phá chiến lược. Nếu chỉ căn cứ vào cơ hội và thách thức thì sẽ không đủ thông tin để xác định đột phá chiến lược, hoặc sẽ xác định không đúng đột phá chiến lược. Do đó, tiếp cận theo cách này thường phải sử dụng kết hợp với những phương thức khác để xác định đột phá chiến lược cụ thể một quốc gia. Các cơ hội và thách thức luôn biến đổi, xuất hiện và mất đi.

Xác định đột phá chiến lược dựa vào cực tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh.

Cách tiếp cận lợi thế cạnh tranh và cực tăng trưởng hàm ý rằng, một quốc gia có thể tạo ra đột phá chiến lược trong tăng trưởng và phát triển bằng cách tập trung vào các cực tăng trưởng, những ngành, lĩnh vực, những vùng có lợi thế cạnh tranh. Theo cách tiếp cận này, các bước để xác định khâu đột phá chiến lược gồm: 1- Xác định rõ cực tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quốc gia. Đó phải là các ngành, lĩnh vực, địa phương và vùng có lợi thế cạnh tranh dựa trên lợi thế tuyệt đối hoặc lợi thế so sánh gắn với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cụ thể. 2- Cực tăng trưởng hoặc lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn có thể coi là đột phá chiến lược của quốc gia đó. Tập trung thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy lợi thế cạnh tranh, giúp các cực tăng trưởng bứt phá và kéo theo sự tăng trưởng và phát triển của các ngành, lĩnh vực, địa phương và các vùng khác.

Cách tiếp cận cực tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh có các ưu điểm: Có thể dễ dàng xác định các khu vực, ngành tăng trưởng cao và có lợi thế cạnh tranh thông qua đóng góp vào nền kinh tế quốc gia; phát huy được lợi thế cạnh tranh, lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói chung, từng ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng trong tăng trưởng và phát triển; có khả năng tạo được các cực tăng trưởng, các ngành, lĩnh vực phát triển nhanh hơn với năng lực cạnh tranh vượt trội so với mặt bằng chung quốc gia và có khả năng cạnh tranh quốc tế; phù hợp với nguồn lực có giới hạn và khả năng đầu tư của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, do chỉ cần đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực, một số địa phương là cực tăng trưởng.

Tuy nhiên, cách tiếp cận này có nhược điểm là: Đột phá chiến lược dựa vào cực tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh có thể dẫn tới sự tăng trưởng và phát triển không đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực, địa phương và vùng, kéo theo các vấn đề về bất bình đẳng xã hội, các vấn đề về quá tải kết cấu hạ tầng đô thị,...; việc xác định cực tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh có thể không chính xác, dựa trên mong muốn và ý chí chủ quan; có thể gặp khó khăn để tạo được sự đồng thuận về ngành, lĩnh vực, vùng là cực tăng trưởng, thậm chí gặp phải các vấn đề chính trị, xung đột quyền lợi giữa các ngành, địa phương.

Gợi ý đối với Việt Nam

Sự cần thiết lựa chọn đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030:

Một là, xuất phát từ những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới: Trong thời gian sắp tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có sự thay đổi nhanh chóng và diễn biến phức tạp, trong đó cần đặc biệt chú ý đến sự chuyển dịch quyền lực chính trị giữa các nước lớn, sự cạnh tranh chiến lược tại nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, xu hướng bảo hộ và tự do hóa thương mại cùng duy trì và sẽ cạnh tranh nhau gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là xu hướng toàn cầu, đang tác động mạnh mẽ và tạo ra những thời cơ cũng như thách thức trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu cũng đang ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn, tác động đến hàng loạt vấn đề về môi trường cũng như xã hội trên toàn thế giới. Dịch bệnh covid-19 với những hệ lụy, có thể kéo theo một cuộc suy thoái hoặc khủng khoảng kinh tế trên phạm vi toàn cầu.

Hai là, xuất phát từ mong muốn phát triển nhanh, bền vững: Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, yêu cầu phát triển nhanh, bền vững được đưa ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 vẫn tiếp tục phù hợp với giai đoạn tiếp theo. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của Việt Nam giai đoạn tới.

Ba là, xuất phát từ sự khan hiếm các nguồn lực: Các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội là hữu hạn, do vậy cần tập trung giải quyết trước những khâu yếu, “điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển. Con đường để Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển chỉ mới bắt đầu và những thành tựu đạt được trong thời gian qua không bảo đảm cho sự thành công trong tương lai. Tác động của những cải cách thể chế và mô hình phát triển trong giai đoạn đầu dường như đã đạt đến giới hạn. Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là việc điều chỉnh và thay đổi mô hình tăng trưởng để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước có thu nhập cao vào năm 2045.

Bốn là, xuất phát từ việc khai thác, sử dụng và phát huy có hiệu quả các nguồn lực sẽ tạo xung lực mới, có sức mạnh lan tỏa, giải phóng mọi tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam là một quốc gia có sự đa dạng lớn đối với các thành phần trong cơ cấu kinh tế. Điều này là một lợi thế, nhưng cũng đem lại rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển của quốc gia, đòi hỏi cần có sự quản lý sự đa dạng một cách linh hoạt và có sự đột phá trong sự phát triển nhằm tạo sự lan tỏa ra toàn nền kinh tế.

Yêu cầu trong xác định các đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030:

Thứ nhất, đột phá chiến lược cần tập trung vào các khâu trọng yếu. Dựa vào cách tiếp cận nhằm xác định chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới, có thể thấy những điểm đột phá nhằm tác động đến phát triển kinh tế đều tập trung vào các khâu trọng yếu của nền kinh tế. Đó là các yếu tố có tác động mạnh mẽ, mang tính quyết định đến chất lượng đầu ra của nền kinh tế, như nguồn nhân lực và vốn. Phát triển con người là nền tảng cốt lõi, cũng là mục tiêu cao nhất của phát triển kinh tế, là yếu tố nhân cho mọi sự phát triển. Bên cạnh đó, yếu tố vốn cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Ngoài ra, còn có năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) cũng chiếm một phần ngày càng lớn trong tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố tác động đến TFP có thể kể đến, như năng suất lao động, trình độ khoa học - công nghệ, hay thể chế kinh tế. Các yếu tố này đều là các khâu trọng yếu của nền kinh tế, là nền tảng giúp cho “cỗ máy” vận hành trơn tru, có tính lan tỏa đến các thành phần khác trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định.

Thứ hai, đột phá chiến lược cần tập trung vào giải quyết các “điểm nghẽn” của nền kinh tế. Như đã đề cập ở trên, một nền kinh tế luôn phải giải quyết rất nhiều vấn đề để tăng trưởng, tuy nhiên, nguồn lực cho việc đó lại là hữu hạn và rất khan hiếm. Vì thế, việc lựa chọn sử dụng nguồn lực như thế nào cho hợp lý cũng rất quan trọng. Để làm được điều này, cần xác định đâu là “điểm nghẽn” của nền kinh tế, là “nút thắt” gây trở ngại cho sự phát triển của quốc gia. Từ đó, có thể tìm ra giải pháp thích hợp và đầu tư tập trung giải quyết, tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực đó, tránh đầu tư dàn trải gây thất thoát, lãng phí và thiếu hiệu quả.

Thứ ba, đột phá chiến lược cần đón bắt được thời cơ, hóa giải thách thức trong quá trình phát triển. Để xác định được điểm đột phá chiến lược cho nền kinh tế, không những cần quan tâm đến đặc điểm, điều kiện của quốc gia, mà còn phải nắm bắt được tình hình, bối cảnh quốc tế trong tương lai. Cần làm rõ những xu hướng về chính trị - kinh tế - xã hội trong thời gian sắp tới để đưa ra những dự báo, những tình huống giả định và đề ra những đường lối phát triển quốc gia sao cho phù hợp nhất. Nhận thức được những lợi thế và khó khăn của đất nước, đồng thời nắm bắt được cơ hội, phòng tránh và giải quyết các thách thức trong phát triển sẽ là một chìa khóa quan trọng dẫn đến thành công trong phát triển của quốc gia.

Thứ tư, đột phá chiến lược cần phát huy và khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc gia luôn được nhấn mạnh trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ ở các quốc gia đang phát triển mà cả các quốc gia phát triển. Đây là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xác định được lợi thế cạnh tranh quốc gia nhằm đưa ra giải pháp đột phá chiến lược mới có thể khai thác tối đa lợi thế này.

Thứ năm, thực hiện các đột phá chiến lược cần tạo động lực thúc đẩy phát triển, thực hiện các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Các chiến lược phát triển luôn đề ra đường lối và cụ thể hóa bằng những mục tiêu, chỉ số cơ bản của không chỉ nền kinh tế mà còn của lĩnh vực văn hóa - xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh. Để đạt được điều này, việc xác định các khâu đột phá cần chú ý tới các chỉ tiêu quan trọng trong các lĩnh vực của Chiến lược phát triển, vì đây là thước đo rõ ràng nhất cho sự thành công của sự phát triển quốc gia.

Đề xuất lựa chọn đột phá chiến lược trong giai đoạn 2021 - 2030:

Nhìn lại ba đột phá chiến lược trong giai đoạn 2011 - 2020 cho thấy, Việt Nam đang ưu tiên lựa chọn đột phá chiến lược dựa vào tiếp cận “điểm nghẽn”. Đây là lựa chọn đúng trong giai đoạn 10 năm vừa qua và thực tiễn thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 cho thấy, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, bối cảnh mới, tiếp cận lựa chọn đột phá chiến lược cho giai đoạn 2021 - 2030 vừa cần bảo đảm khai thông “điểm nghẽn”, vừa cần kích hoạt các động lực cho tăng trưởng, đồng thời cần đạt được các mục tiêu ưu tiên đề ra trong phạm vi nguồn lực là hữu hạn. Với yêu cầu đó, cần lựa chọn trọng tâm, trọng điểm của các đột phá giai đoạn trước, đồng thời bổ sung những nội dung mới, những điểm đột phá mới là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Đột phá trong giai đoạn tới cần vừa kế thừa các đột phá chiến lược đã được đề xuất trong giai đoạn 2011 - 2020, đồng thời từ thực tiễn tình hình trong nước cũng như quốc tế có nhiều thay đổi, cần vừa cụ thể hóa và bổ sung một số nội dung mới.

Một là, bổ sung nội dung hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nội dung này nhấn mạnh hơn tới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với trung tâm là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đi cùng là bộ máy quản lý gọn nhẹ, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, liêm chính, trong sạch, có năng lực chuyên môn giỏi, sáng tạo, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đây là những điều kiện quan trọng hàng đầu để bảo đảm nâng cao chất lượng thể chế.

Hai là, cụ thể hóa và bổ sung nội dung về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực đổi mới sáng tạo; tập trung đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nhân tài. Trong những năm cuối của thập niên vừa qua, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động rộng khắp, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Những thành tựu công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (big data), in-tơ-nét vạn vật (IoT), công nghệ rô-bốt, công nghệ sinh học, vật liệu mới tạo ra những phương tiện, phương thức sản xuất, giao tiếp, sinh hoạt chưa từng có trong lịch sử loài người; thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các mô hình phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức, quản trị, quản lý,... hoàn toàn mới. Trên nền tảng đó, yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao phải thay đổi, phải gắn với bối cảnh mới. Theo đó, nhân lực đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng mới mà đổi mới sáng tạo là yếu tố quyết định. Cùng với phát triển nhân lực chất lượng cao, chính sách bồi dưỡng và thu hút nhân tài cần được thực hiện căn cơ, bài bản.

Ba là, cụ thể hóa và bổ sung nội dung về phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khát vọng phát triển và sức sáng tạo của nhân dân. Lịch sử Việt Nam cũng như thực tiễn ở các quốc gia phát triển thành công trên thế giới cho thấy, sự hùng cường của một quốc gia, dân tộc do nhân tố con người quyết định. Sự hùng cường được hun đúc nên từ cả nền tảng vật chất và giá trị tinh thần, như tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, đặc biệt là khát vọng phát triển và sức sáng tạo của nhân dân. Sự phát triển của Việt Nam năm 2030, năm 2045 và những năm tiếp theo phụ thuộc vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tổng thể, dài hạn và toàn diện nhưng chắc chắn, sự thành công trong tương lai đòi hỏi con người Việt Nam cần có một khát vọng phát triển mãnh liệt, không ngừng sáng tạo và tinh thần yêu nước nồng nàn.

Bốn là, bổ sung nội dung tăng cường kết nối với khu vực và thế giới. Phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo nền tảng để phát triển nền kinh tế số. Trong những năm tới, để đi xa hơn, tiếp cận được nhiều thị trường, kết cấu hạ tầng giao thông của Việt Nam cần tiếp tục kết nối với khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, tài nguyên, dữ liệu số cần phát triển tương xứng và đáp ứng xu hướng phát triển nền kinh tế số.

Năm là, bổ sung đột phá phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ; xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Lý thuyết và thực tiễn ở các quốc gia đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ trong nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội. Khoa học - công nghệ không những quyết định việc “sản xuất ra cái gì” mà còn “bằng phương thức nào”. Đây cũng là nhân tố quyết định sự khác biệt cũng như trình độ phát triển của các quốc gia./.

Theo PGS, TS. BÙI VĂN HUYỀN/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều