Nhớ mãi những lần được gặp Bác Hồ kính yêu

(Mặt trận) - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta; người viết bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Được gặp Người là ước mong, niềm vinh dự của mọi người Việt Nam yêu nước. Tác giả là một trong số những người đã có được niềm vinh dự và hạnh phúc lớn lao đó.
Lần đầu tiên, tôi được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là khi tôi cùng các thầy cô giáo và sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội đón Người tại Trường. Hôm đó là ngày mồng một Tết Nguyên đán năm 1958 - ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

Chuyến đi thăm không báo trước của Bác giống như một người ông, người cha đến “xông nhà” và chúc Tết con cháu ngày đầu Xuân làm cho lãnh đạo Trường, cũng như cán bộ, công nhân viên và sinh viên khá bất ngờ và lúng túng. Nơi Bác đến đầu tiên là khu ở của sinh viên. Hầu hết sinh viên ở lại ăn Tết hôm đó là con em đồng bào miền Nam tập kết. Do đêm trước đón giao thừa quá khuya và thao thức nhớ nhà, nên ở nhiều phòng, sinh viên vẫn đang say sưa giấc nồng. Tiếp đến, Bác xuống kiểm tra bếp ăn tập thể. May thay, bếp gọn gàng, bữa cơm đầu năm đã được chuẩn bị khá tươm tất. Bác khen tinh thần phục vụ của các bác, các chị cấp dưỡng.

Tin Bác đến thăm lay động toàn trường. Mọi người đổ xô ra đón và quây quần quanh Bác. Sau mấy lời chúc Tết, Bác căn dặn chúng tôi: “Giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất; lý luận phải gắn liền với thực tiễn; học phải đi đôi với hành; nhà trường phải gắn liền với xã hội”.

Lời căn dặn đó của Bác đã trở thành phương châm giáo dục của Nhà trường. Bác cũng không quên nhắc nhở cán bộ, sinh viên cần gọn gàng, ngăn nắp trong sinh hoạt và cuộc sống. Đặc biệt, đối với con em đồng bào miền Nam, Bác nhấn mạnh: Phải học tập tốt hơn, rèn luyện tốt hơn và sẵn sàng trở lại miền Nam khi Tổ quốc cần.

Lần thứ hai, tôi gặp Người là ngày 17/6/1960 khi Bác cùng đoàn đại biểu Chính phủ Albania đến thăm trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Điều làm tất cả chúng tôi bất ngờ là phong cách giản dị của một vị lãnh tụ cấp cao. Trong lúc đoàn bạn vào thăm phòng triển lãm của Trường, Bác đã dành cho chúng tôi những giây phút đầm ấm, thân thương. Bác ngồi ngay tại bậc lên xuống nhà triển lãm và vẫy gọi chúng tôi đến quây quần quanh Người. Bác hỏi tình hình của Nhà trường. Bác rất vui khi biết sau 2 năm, kể từ khi Bác đến thăm lần thứ nhất, Nhà trường đã có nhiều tiến bộ. Bác khen Trường đã bồi dưỡng, đưa được nhiều công nhân, nông dân, con em dân tộc thiểu số và các chiến sĩ quân đội vào đại học. Bác lưu ý, số các cháu gái vào Đại học Bách khoa còn ít. Các chú phụ trách nhà trường cần chú ý hơn về tình hình này.

Bác căn dặn chúng tôi: “Học để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Thầy trò cần thi đua dạy tốt, học tốt”. Cuộc vận động “dạy tốt, học tốt” trong ngành giáo dục của chúng ta ra đời bắt đầu từ ngày hôm đó.

Lần thứ ba, đó là khi Bác đến thăm trường Đại học Bách khoa Hà Nội là ngày 3/2/1962 cùng đoàn đại biểu Nhà nước Lào do Hoàng thân Xuvanna Phuma dẫn đầu. Khi mọi người đã vào hội trường, từ Đoàn Chủ tịch cuộc mít-tinh, Bác vẫy tay ra hiệu nhiều lần cho mọi người ngồi xuống. Nhưng tất cả đều đứng và hô vang: “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Tiếng hô không ngớt và kéo dài. Khi mọi người đã ổn định, Bác nói vui: “Các cô, các chú, các cháu giảng dạy tốt, học tập tốt, công tác tốt thì hãy hô: “Bác Hồ muôn năm”… Yêu Bác, quý Bác, các cô, các chú, các cháu hãy thi đua dạy tốt, học tốt và lao động tốt”.

Kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi trong những lần gặp Bác, đó là tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10/1960 tại Thủ đô Hà Nội.

Khi đó, tôi là cán bộ giảng dạy tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Một hôm, vào cuối tháng 6, tôi được lãnh đạo Nhà trường gọi lên thông báo quyết định bàn giao công việc đang làm, được nghỉ phép một tuần để sau đó đi nhận công tác đặc biệt. Anh em trong bộ môn đoán già, đoán non, nhưng cuối cùng đành chịu, không ai biết công tác đặc biệt đó là gì.

Hết thời gian nghỉ phép, tôi khoác ba lô, đạp xe đến địa điểm đã quy định trong giấy triệu tập, đó là khu nhà số 8 và số 10 đường Chu Văn An hiện nay. Qua ít ngày ổn định tổ chức và học tập nội quy, mọi người chúng tôi mới biết là mình được triệu tập đi phục vụ Đại hội III của Đảng.

Sau đó, chúng tôi được chuyển về trường Tuyên huấn Trung ương để học tập chính trị, nhằm xác định thái độ phục vụ và bắt tay vào việc. Từ ngày chuyển về đây, mọi học viên chúng tôi phải thực hiện nghiêm túc lệnh cấm trại “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhằm đảm bảo bí mật tuyệt đối theo Chỉ thị của Trung ương. Mọi việc chỉ được phép tiến hành trong nội bộ trường. Không điện thoại, không thư từ, tạm thời cắt đứt mọi quan hệ cá nhân với thế giới bên ngoài; cắt tóc tại chỗ, mua sắm có người lo.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước lần lượt lên lớp tập huấn cho chúng tôi về tình hình thế giới và trong nước. Trong số những báo cáo viên có đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an nói về an ninh, quốc phòng và âm mưu của địch chống phá ta. Đồng chí “Sao Đỏ” tức Nguyễn Lương Bằng, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên bang Xô-viết giới thiệu thành tựu mọi mặt của Liên Xô và phong cách tiếp đón, thái độ phục vụ khách quốc tế, cũng như một số thủ tục, nghi thức ngoại giao. Đại sứ nước ta tại Trung Quốc nói về quan hệ ta - bạn, về sự giúp đỡ to lớn của bạn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; đồng chí Ung Văn Khiêm, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trình bày tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta…

Chúng tôi lên lớp buổi sáng, chiều thảo luận tổ và buổi tối viết thu hoạch. Gần một tháng miệt mài nghiên cứu và học tập trôi qua. Gần ngày kết thúc lớp học, đồng chí Lê Duẩn lên lớp về “Đề cương Cách mạng miền Nam” và “Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II” và tổng kết lớp học.

Sáng hôm sau, Bác Hồ đến. Đi cùng Bác có anh Lê Văn Lương, Trưởng Ban Tổ chức Đại hội III của Đảng. Vẫn bộ áo nâu sồng quen thuộc và đôi dép “Bình Trị Thiên khói lửa”, Bác hòa vào giữa đám đông con cháu trong tiếng hô vang và những đợt vỗ tay không ngớt. Bác khen chúng tôi học tập tốt, Bác mong chúng tôi phục vụ Đại hội thật tốt vì Đại hội này là Đại hội của một nửa đất nước được giải phóng với số đại biểu đông nhất, cả đại biểu trong nước lẫn đại biểu nước ngoài. Đại hội sẽ tổng kết 30 năm xây dựng Đảng và quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước là đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.

Bác nhắc nhở anh chị em chúng tôi phục vụ các đại biểu nói chung, khách nước ngoài nói riêng phải hết sức chu đáo, trọng thị và thân tình. Bác nói: Mới ra khỏi chiến tranh, đất nước ta còn nghèo về vật chất và thiếu hiểu biết, cũng như kinh nghiệm về lễ tân, Bác chắc chắn bạn sẽ thông cảm với ta.

Học tập chính trị xong, tôi được Ban Tổ chức phân công cùng anh Đậu Ngọc Xuân và anh Trịnh Ngọc Thái1 phụ trách bộ phận phiên dịch các văn kiện và dịch hội trường. Vì vậy, chúng tôi có nhiều dịp được gặp Bác Hồ.

Bộ phận phiên dịch văn kiện được chia thành 5 tổ: tổ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung và tiếng Tây Ban Nha. Trừ hai tổ (tiếng Pháp và tiếng Anh) gồm đa phần là những giáo sư hàng đầu, như: giáo sư Phạm Huy Thông, các giáo sư: Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Văn Chương... còn các tổ tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha hầu hết là lớp trẻ, thâm niên trong nghề còn ít. Vì vậy, Trung ương đã mời và bổ sung cho những tổ này một số chuyên gia phiên dịch người Nga, Trung Quốc, Cu Ba giỏi tiếng Việt.

Vất vả nhất đối với đội ngũ phiên dịch là những ngày gần Đại hội và trong thời gian tiến hành Đại hội. Vì đến lúc đó, các đoàn đại biểu nước ngoài đến, mới có bài để dịch. Nhiều đoàn lại không đưa ngay, chờ nghe diễn văn khai mạc của chủ nhà, nghe tham luận của các đoàn bạn mới hoàn chỉnh bài phát biểu của mình và chỉ đưa cho bộ phận phiên dịch vào giờ chót (nghĩa là nếu phát biểu vào sáng hôm sau thì chiều hôm trước mới đưa). Thế là, guồng máy phiên dịch làm việc trắng đêm. Dịch từ tiếng bạn sang tiếng Việt và từ tiếng Việt sang các thứ tiếng khác. Công việc phiên dịch không phải một đêm, mà diễn ra trong suốt những ngày Đại hội.

Như để động viên bộ phận phiên dịch, đêm mồng 6/9, một ngày sau khai mạc Đại hội, Bác bất chợt đến thăm bộ phận chúng tôi. Cùng đi với Bác có các anh: Lê Văn Lương, Tố Hữu, Ung Văn Khiêm. Hôm đó, Bác rất vui. Câu đầu tiên là Bác khen các bản dịch chính xác, diễn đạt sát ý, văn phong tốt. Bác thưởng cho các anh mỗi người một điếu thuốc lá thơm. Bỗng Bác quay sang Giáo sư Phạm Huy Thông nói vui: “Đúng chú này mũi nhòm mồm thật”; nên Văn kiện viết: “Trong kế hoạch 5 năm 1961-1965 sẽ xây dựng 400 nhà máy, xí nghiệp thì chú lại dịch xây dựng 400 nhà bếp” (tiếng Pháp USINE là nhà máy, do đánh máy nhầm thành CUISINE là nhà bếp). Mọi người cười vui.

Bác lại hỏi anh Lương:

- Tiêu chuẩn ăn hàng ngày của các cô, các chú phiên dịch là bao nhiêu?

- Thưa Bác là 5 ký gạo - Anh Lương thưa2

- Còn đại biểu Đại hội?

- Thưa Bác là 10 ký.

Bác góp ý ngay với anh Lương:

- Chính sách của chú như vậy là chưa xã hội chủ nghĩa, chưa thực hiện nguyên tắc: làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Các đại biểu Đại hội ngày họp, tối nghỉ, còn các cô chú phiên dịch văn kiện phải làm ngày, làm đêm mà lại chỉ được hưởng bằng một nửa tiêu chuẩn của đại biểu là không công bằng. Bác đề nghị chú cần sửa ngay.        

Và thế là từ hôm sau, ba bữa ăn chính của bộ phận phiên dịch được cải thiện. Ngoài ba bữa chính, anh Lương còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần bổ sung thêm xuất “bồi dưỡng ca đêm” vào lúc 12 giờ khuya.

Một bài học sâu sắc, một kỷ niệm để đời về tôn trọng phụ nữ mãi mãi in đậm trong tôi, đó là khi Bác chụp ảnh với đoàn đại biểu quốc tế, đại biểu trong nước và cán bộ, nhân viên phục vụ. Để tiết kiệm thời gian, các đoàn cần tập hợp đội hình trước, để đến khi Bác đến là có thể chụp ngay. Tôi được phân công sắp xếp khối phiên dịch. Khi bố trí, tôi đã có ý định trước là dành một chỗ khá rộng để Bác đến là mình có thể được đứng cạnh. Nhưng sự việc lại không như ý muốn. Khi đến, Bác nhắc tôi và một đồng chí khác đứng xuống hàng sau và Bác mời hai cô phiên dịch người Nga lên đứng cạnh Bác.

Đến lượt đoàn đại biểu các dân tộc, do nhiều đồng chí lần đầu được gần Bác, nên Bác vừa tới anh em bỏ hàng ngũ đã sắp xếp sẵn chạy đến vây quanh Bác. Anh Chu Văn Tấn lúc đó là Trưởng đoàn rất lúng túng. Anh Lê Văn Lương gọi tôi đến giúp một tay. Ổn định trật tự xong, tôi chạy đi thì được Bác gọi lại và bảo anh Tấn nhích lại gần Bác để tôi đứng cạnh anh.

Chụp ảnh xong, Bác hỏi tôi:

- Cháu dân tộc nào?

- Thưa Bác, cháu dân tộc Kinh. Tôi thưa.

Bác ồ lên một tiếng.

- Bác tưởng cháu là dân tộc thiểu số. Sao da cháu nâu vậy?

- Thưa Bác, mấy hôm nay cháu phải chạy nhiều việc ngoài trời nên da bắt nắng.

- Thế cháu làm việc ở đâu, đã có gia đình chưa?

- Thưa Bác, cháu dạy ở Trường Đại học Bách khoa và cháu đang có người yêu.

Bác rất vui và quay sang bảo anh Lương cấp cho tôi giấy mời để tối hôm đó đưa người yêu đi dự Đại hội của nhân dân Thủ đô chào mừng thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy.

Bác Hồ đã đi xa, nhưng những hình ảnh về Bác, những điều Bác căn dặn và những tình cảm của Bác vẫn luôn in đậm trong trái tim tôi.

Nguyễn Túc

Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam

Chú thích:

1. Sau này đồng chí Đậu Ngọc Xuân là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư. Đồng chí Trịnh Ngọc Thái là Phó ban Đối ngoại Trung ương, Đại sứ nước ta tại Cộng hòa Pháp.

2. Thời đó tính tiêu chuẩn bằng gạo. 1 ký gạo bằng 4 hào.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều