Tái hiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất tại Bảo tàng MTTQ Việt Nam - Những yêu cầu đặt ra

(Mặt trận) - Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất là một bộ phận của lịch sử cách mạng Việt Nam, gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng, được trưng bày như một bộ phận trong nhiều bảo tàng có nội dung về lịch sử cách mạng, tiêu biểu như Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Là nội dung cốt lõi trong phạm vi phản ánh của Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất được tái hiện như một chỉnh thể toàn vẹn, có tính hệ thống và mang bản sắc riêng.

Lãnh đạo UBTW MTTQ Việt Nam trao Giấy ghi nhận cho các cá nhân, tổ chức hiến tặng hiện vật cho Bảo tàng.

Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất cần được đặt trong “dòng chảy” truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc

Mặt trận Dân tộc thống nhất là một tổ chức có sứ mệnh tập hợp mọi người dân yêu nước, xây dựng lực lượng, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Do vậy, lịch sử Mặt trận phải được đặt trong phạm vi lớn hơn của “dòng chảy” truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách tiếp cận biện chứng này đặt lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất trong mối quan hệ với cái chung, cái tổng thể nhằm làm rõ được sự kế thừa và phát triển sáng tạo từ truyền thống của dân tộc, vừa khu biệt được phạm vi đoàn kết trong Mặt trận và đoàn kết ngoài Mặt trận. Điều đó đòi hỏi nội dung Bảo tàng phải được mở rộng thành một bảo tàng về đại đoàn kết toàn dân tộc chứ không chỉ đơn thuần tái hiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất.

Phản ánh về truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, Bảo tàng cần tập trung làm rõ được nguồn gốc của tinh thần cố kết dân tộc như là một yêu cầu, quy luật khách quan của lịch sử. Đối với người Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là tình cảm (tình đoàn kết), ý thức (tinh thần đoàn kết), di sản (truyền thống đoàn kết), lực lượng (sức mạnh đoàn kết) mà nó còn là một giá trị cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, được biểu hiện ở đường lối chính trị, chính sách, pháp luật của chính quyền qua các thời kỳ, ở nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, ở lối ứng xử của mỗi người dân Việt Nam,... Đại đoàn kết toàn dân tộc là chất keo gắn kết mọi người dân Việt Nam không phân biệt về giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài thành một khối thống nhất về lý tưởng, ý chí, niềm tin, tổ chức và hành động vì một quốc gia độc lập, hùng cường.

Bảo tàng phải phản ánh được các tính chất cơ bản của tổ chức Mặt trận

Tính chất liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện

Tính chất liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của Mặt trận được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị của Đảng, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ Mặt trận. Tổ chức liên minh là liên kết với nhau thành một khối thống nhất về ý chí, hành động, tổ chức để thực hiện mục tiêu chung và được thành lập trên cơ sở tự nguyện liên hiệp của các thành viên. Tính chất chính trị của tổ chức liên minh được thể hiện ở tôn chỉ, mục đích, mô hình tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động.

Mặc dù có nhiều hình thức tổ chức với tên gọi khác nhau, phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ lịch sử cụ thể, nhưng tính chất liên minh chính trị của Mặt trận Dân tộc thống nhất không thay đổi. Mục đích của Mặt trận Dân tộc thống nhất là đánh đổ thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay nhân dân, “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi hình thức tổ chức Mặt trận lại đề ra mục tiêu cụ thể phù hợp. Sau khi giành được chính quyền, Mặt trận được xác định là một bộ phận của hệ thống chính trị nước ta. Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình1.

Tính dân tộc

Tính dân tộc của Mặt trận thể hiện ở nhiệm vụ cơ bản là xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mọi hoạt động của Mặt trận đều nhằm mục đích cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Mặt trận lấy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường để đoàn kết mọi người dân, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến, miễn là họ tán thành tôn chỉ, mục đích của Mặt trận. Phạm vi đoàn kết của Mặt trận vì thế không chỉ khu biệt trong một số thành phần xã hội, mà hướng tới mọi người dân trong cộng đồng quốc gia - dân tộc.

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cộng đồng công dân được liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc, cùng chia sẻ những giá trị, niềm tự hào về truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa, lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; cùng chung ý chí xây dựng một chế độ chính trị, nền kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao độc lập, tự chủ; đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc; có tinh thần và hành động tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn.

Tính nhân dân

Mặt trận là tổ chức của nhân dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, thông qua tổ chức Mặt trận, nhân dân nói lên tiếng nói của mình. Mặt trận là tổ chức rộng lớn nhất của nhân dân trên cơ sở liên hiệp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Mặt trận có nhiệm vụ lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Mặt trận thay mặt nhân dân để góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, thực hiện giám sát, phản biện xã hội. Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử; tham gia tuyển chọn Thẩm phán, Kiểm sát viên và giới thiệu Hội thẩm nhân dân; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội về xây dựng luật, pháp lệnh; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án luật, pháp lệnh; tham gia góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp, dự án luật, pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản pháp luật trái Hiến pháp và pháp luật. Nhìn chung, mọi hoạt động của Mặt trận đều xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.

Bảo tàng phải phản ánh được vai trò của từng thành viên trong khối liên minh chính trị của Mặt trận Dân tộc thống nhất

Bảo tàng phải phản ánh được vai trò của từng thành viên trong khối liên minh chính trị của Mặt trận Dân tộc thống nhất, trong đó Đảng vừa là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, vừa là thành viên hạt nhân của Mặt trận; liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là lực lượng nòng cốt; trên cơ sở đó không ngừng mở rộng khối liên minh với các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi người Việt Nam yêu nước ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, nhất trí và hành động vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Hoạt động của Mặt trận thể hiện ở 3 nhóm sau:

- Công tác lãnh đạo, hiệp thương, điều phối chung hoạt động của tổ chức Mặt trận.

- Công tác phối hợp, thống nhất hành động của các thành viên. Đó là việc các thành viên thực hiện các chương trình hành động, kế hoạch phối hợp hoạt động của Mặt trận trong phạm vi tổ chức của mình, hay kế hoạch hoạt động của thành viên cá nhân. Việc xác định các hoạt động với tư cách là thành viên Mặt trận và các hoạt động độc lập của mỗi tổ chức thành viên là điều cần thiết đối với Bảo tàng, nhằm khu trú được phạm vi hoạt động của Mặt trận.

- Hoạt động của cơ quan chuyên trách, cơ quan tư vấn nhằm thực hiện nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho các cơ quan lãnh đạo, hiệp thương, điều phối; đồng thời trực tiếp triển khai thực hiện các nhiệm vụ đặc thù của Mặt trận.

Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận chính vì thế không chỉ thể hiện trong vai trò của các cơ quan lãnh đạo, hiệp thương, điều phối và hệ thống cơ quan chuyên trách từ Trung ương đến địa phương, mà còn phụ thuộc vào vai trò hoạt động của các thành viên, đặc biệt là các tổ chức thành viên. Thông qua hoạt động của các tổ chức thành viên, các chương trình hành động của Mặt trận được triển khai đến với từng đối tượng hội viên của các đoàn thể. Mỗi tổ chức thành viên vững mạnh sẽ góp phần xây dựng tổ chức liên minh vững mạnh và ngược lại.

Bảo tàng phải phản ánh được lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất là một quá trình sáng tạo của Đảng ta

Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất là một quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào bối cảnh cách mạng Việt Nam. Trong bài viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất: Kinh nghiệm và bài học cho hôm nay”, PGS.TS. Trần Hậu nhận xét: “Thành công nổi bật của Đảng trong việc lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là đã giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp để có thể tập hợp rộng rãi mọi lực lượng cách mạng và hình thành liên minh chính trị phù hợp với cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp và tương quan lực lượng ở nước ta qua các thời kỳ cách mạng”2. Từ sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Dân tộc thống nhất, có thể thấy một số đặc điểm nổi bật sau: (1) Đảng ta linh hoạt, nhạy bén đề ra khẩu hiệu đấu tranh và thành lập tổ chức Mặt trận phù hợp với đặc điểm, yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn. (2) Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo trong Mặt trận, kiên trì nguyên tắc đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả các lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời, cũng chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, không đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận. (3) Không ngừng củng cố khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức; đồng thời, thu hút các giai cấp khác trong xã hội, thông qua các hình thức tập hợp quần chúng ngày càng phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng. (4) Xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận thông qua phương thức lãnh đạo thích hợp. (5) Điều kiện tiên quyết để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng3.

Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất là một quá trình sáng tạo, hoàn thiện, phát triển không ngừng của Đảng ta về đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng lực lượng cách mạng, về tổ chức và hoạt động của Mặt trận. Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1975), sự sáng tạo đó thể hiện ở việc giải quyết mối quan hệ giữa kiên định mục tiêu chiến lược với mềm dẻo về sách lược, giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, giữa lực lượng cách mạng với đối tượng cách mạng,... kết hợp giữa phát động phong trào quần chúng với củng cố tổ chức Mặt trận, giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,... Cách tổ chức các hình thức Mặt trận cũng vì thế linh hoạt bám sát vào yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng từng giai đoạn. Từ Hội Phản đế Đồng minh (18/11/1930 - tháng 3/1935), Hội Phản đế Liên minh (tháng 3/1935 - tháng 10/1936), Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (tháng 10/1936 - tháng 3/1938), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 3/1938 - tháng 11/1940), Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế (tháng 11/1940 - tháng 5/1941) đến Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941 - tháng 3/1951) phản ánh một quá trình liên tục hoàn thiện về phương pháp tập hợp lực lượng và tổ chức phong trào cách mạng. Mặt trận Việt Minh ra đời đánh dấu sự phát triển quan trọng trong lịch sử, lần đầu tiên tổ chức Mặt trận hội tụ đầy đủ 3 yếu tố: đường lối, phong trào và tổ chức. Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt, 29/5/1946) và sau đó là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt, tháng 3/1951), tư tưởng được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Đảng ta đã thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc (năm 1955), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960) và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (năm 1968) ở miền Nam. Giai đoạn từ tháng 12/1960 - 6/1969, trước khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ của một chính phủ, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam; vừa làm nhiệm vụ của Mặt trận Dân tộc thống nhất, tập hợp, huy động tất cả các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc dưới sự lãnh đạo của liên minh công nông để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.

Sau khi giải phóng miền Nam, non sông thu về một mối, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới. Cùng với quá trình hình thành, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền cũng từng bước được đổi mới về tư duy lý luận, cũng như tổ chức hoạt động thực tiễn. Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 18/4/1983 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới”, đã đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chỉ thị số 17-CT/TW đã chỉ ra ba chức năng cơ bản của Mặt trận là: Tuyên truyền, giáo dục, phối hợp thống nhất hành động và phản ánh nguyện vọng, ý kiến của nhân dân; đồng thời, đề ra sáu nhiệm vụ cụ thể để thực hiện ba chức năng đó. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời năm 1999 và hiện nay là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, đặt cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng Mặt trận theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, những vấn đề cơ bản của Mặt trận đã được luật hóa, như vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, quan hệ phối hợp..., có tác dụng tích cực đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở nhận thức mới về mâu thuẫn xã hội và đổi mới tư duy theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị khóa VII “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất” đề ra bốn vấn đề đổi mới quan trọng về đại đoàn kết toàn dân tộc là: Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử để đoàn kết theo điểm tương đồng; đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng; xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch, vững mạnh; đa dạng hóa các hình thức tập hợp các tầng lớp nhân dân. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã đặt vị trí, vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lên một tầm cao mới, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tạo sự chuyển biến trong toàn Đảng, toàn xã hội về công tác Mặt trận. Chủ trương này khẳng định tính đúng đắn trong đường lối của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất, đánh dấu bước phát triển mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận. Bên cạnh đó, các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc, tôn giáo và đất đai đã đề ra nhiều quan điểm mới, nhằm tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao vai trò của Mặt trận trong điều kiện mới, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, đề ra định hướng nhiệm vụ của Mặt trận trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước4. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục phát triển nhận thức về vai trò của Mặt trận trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị” của Mặt trận Tổ quốc, trong việc “Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tiếp tục được cụ thể hóa thành: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”6.

Tái hiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất trong Bảo tàng không giống như viết một cuốn sách lịch sử, nó đòi hỏi các nhà bảo tàng học phải có cách tiếp cận sáng tạo thông qua các hoạt động, bộ sưu tập hiện vật và các thủ pháp trưng bày. Những yêu cầu về diễn giải lịch sử Mặt trận nêu trên là những nguyên tắc có ý nghĩa định hướng trong các hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, triển lãm,... để xây dựng Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trở thành một bảo tàng của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chu Văn Khánh

ThS, Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học, UBTW MTTQ Việt Nam

Chú thích:

1. Khoản 3 Điều 4 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.

2,3,4. PGS.TS. Trần Hậu: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất: Kinh nghiệm và bài học cho hôm nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/820533/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-mat-tran-dan-toc-thong-nhat--kinh-nghiem-va-bai-hoc-cho-hom-nay.aspx.

5,6.    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.172, 173.

 

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều