ASEAN tuổi 50: Nhìn lại và hướng tới

Đến nay, vừa tròn nửa thế kỷ từ khi Hiệp hội các nước Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) được thành lập (1967 - 2017). Các nước Đông Nam Á đã trải qua chặng đường dài, vượt qua nhiều gian nan, thử thách để đạt đến thời kỳ hòa bình, ổn định và phát triển như ngày nay. Bước vào tuổi 50 chính là dịp để các nước thành viên nhìn lại chặng đường đã qua và hướng tới “một Cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau” như Hiến chương ASEAN đã xác định.

 Quốc kỳ của các nước thành viên ASEAN - Nguồn: dantri.com.vn

1- Ngay từ đầu thập niên 60 của thế kỷ XX đã xuất hiện những ý tưởng về sự liên kết giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đó là sáng kiến của Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin kêu gọi ký kết Hiệp ước hữu nghị và kinh tế Đông Nam Á (SEAFET - 1959); thỏa thuận giữa Ma-lai-xi-a, Thái Lan và Phi-líp-pin về việc thành lập Hội Đông Nam Á (ASA, thành lập vào ngày 31-7-1961); kế hoạch hợp tác giữa ba nước Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a (MAPHILINDO, tháng 8-1963). Nhưng những ý tưởng và tổ chức trên đều “chết yểu”, nguyên nhân chủ yếu là do sự tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các nước thành viên. Phải trải qua nhiều cuộc thương lượng, đến ngày 8-8-1967, tại Băng-cốc (Thái Lan), ASEAN được thành lập với 5 nước thành viên đầu tiên là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan.

Trong khi nhiều tổ chức ở các châu lục được thành lập trong điều kiện hòa bình, nhằm mục tiêu là hợp tác phát triển kinh tế thì Đông Nam Á khi đó lại là một khu vực nóng trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tình hình Đông Dương căng thẳng do đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, cuộc chiến tranh có nguy cơ lan rộng ra toàn Đông Dương. Hình thái trật tự thế giới hai cực đã tác động đến Việt Nam, báo hiệu tình hình căng thẳng trong khu vực với sự xuất hiện “hai phe”: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sự viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô, còn Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên rồi trực tiếp tham chiến, kéo theo các đồng minh của Mỹ và SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á). Trong bối cảnh như vậy, các nhà lãnh đạo ở Đông Nam Á tính toán trên hai mặt: một là, ngăn chặn ảnh hưởng phong trào cách mạng từ Việt Nam lan tới, thường gọi là “nguy cơ cộng sản”; hai là, tránh bị Mỹ lôi kéo vào cuộc chiến tranh Đông Dương đang có dấu hiệu sa lầy. Do vậy, mặc dù văn kiện đầu tiên của ASEAN là Tuyên bố Băng-cốc năm 1967 nhấn mạnh việc hợp tác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa, xây dựng một Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng, nhưng vấn đề chính trị và an ninh khu vực trở nên đặc biệt quan trọng, chi phối hoạt động của ASEAN trong một thời gian dài.

Tình hình chiến tranh ở Đông Dương buộc các nước ASEAN phải tính đến vấn đề làm thế nào tránh khỏi dính líu vào cuộc chiến, vì thế các thành viên đã đưa ra bản Tuyên bố Cu-a-la Lăm-pơ năm 1971 với mục tiêu xây dựng Đông Nam Á thành “Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập” (ZOPFAN). Trong những năm đầu tiên, bản thân ASEAN chưa hoạt động được bao nhiêu, mối quan hệ Việt Nam - ASEAN còn trong giai đoạn thăm dò. Tuy nhiên, Hiệp định Pa-ri về Việt Nam (tháng 1-1973) với việc quân Mỹ hoàn toàn rút khỏi Việt Nam tạo nên một tình huống mới ở Đông Nam Á. Hai nước ASEAN không tham gia SEATO là Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a nhanh chóng đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. In-đô-nê-xi-a sớm có quan hệ với Việt Nam từ năm 1964 ở cấp lãnh sự, nay nâng lên hàm đại sứ. Nhưng mối quan hệ đó cũng mới dừng trên giấy vì các nước này vẫn đang có sứ quán ở Sài Gòn trong quan hệ với Việt Nam Cộng hòa.

Tình hình Đông Dương diễn biến rất nhanh với sự tiến triển của lực lượng cách mạng ở cả ba nước. Tháng 4-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Quân Mỹ rút khỏi Đông Dương, tổ chức SEATO giải thể. Đứng trước tình hình mới của một Đông Nam Á hòa bình, cả hai phía Việt Nam và ASEAN đều tính đến việc điều chỉnh chính sách khu vực.

Tháng 2-1976, Hội nghị cấp cao ASEAN lần đầu tiên được tổ chức tại In-đô-nê-xi-a, công bố bản “Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác” (TAC, thường gọi là Hiệp ước Ba-li) và Tuyên bố Hòa hợp ASEAN. Tháng 7 cùng năm, Chính phủ Việt Nam ra bản “Tuyên bố về Chính sách bốn điểm đối với Đông Nam Á”. Nội dung cơ bản của hai văn kiện có nhiều điểm trùng hợp nhau: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực đối với nhau, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thương lượng hòa bình, xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác. Điều đó cho thấy, cả hai bên đều hướng tới một Đông Nam Á hòa bình, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng phát triển. Đây chính là “mẫu số chung” phản ánh nguyện vọng chính đáng và lợi ích thiết thực của người dân Đông Nam Á, của các quốc gia trong khu vực.

Tuy nhiên, trên thực tế chỉ sau khi “vấn đề Cam-pu-chia” được giải quyết, tình hình khu vực mới được cải thiện, đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Ba-li (năm 1992) và tiếp đó diễn ra quá trình tiếp xúc giữa hai bên. Ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, là thành viên thứ 7 của tổ chức này, mở đầu quá trình hoàn thiện ASEAN vào cuối thế kỷ XX với sự kết nạp ba nước Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia. Như vậy, sau hơn 30 năm, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á trở thành một tổ chức liên kết toàn khu vực, thường được gọi là ASEAN 10.

2- Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển, ASEAN ngày càng mở rộng mối liên hệ với các quốc gia bên ngoài Đông Nam Á, vị thế quốc tế của ASEAN ngày càng được nâng cao. Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) chính thức được thành lập vào ngày 25-7-1994, theo đuổi mục tiêu thúc đẩy cơ chế đối thoại, trao đổi ý kiến về các vấn đề an ninh và chính trị trong khu vực, đóng góp vào những cố gắng xây dựng lòng tin, phát triển ngoại giao quốc phòng, tiến tới tiếp cận phương pháp giải quyết xung đột. Sự tham gia của các nước ngoài Đông Nam Á, nhất là các cường quốc, cho thấy vai trò chủ đạo của ASEAN được thừa nhận trong hoạt động của Diễn đàn mà các thành viên đều tìm thấy lợi ích của mình. Cuộc họp đều đặn hằng năm của ARF từ khi ra đời đến nay chứng tỏ đây là diễn đàn có uy tín do ASEAN khởi xướng và đóng vai trò trung tâm, tập hợp các nước lớn và nhiều nước khác để bàn bạc những vấn đề an ninh khu vực và quốc tế. Diễn đàn tuy không đi đến một nghị quyết nào ngoài Tuyên bố của Chủ tịch ARF, nhưng là nơi trao đổi cần thiết về những quan điểm chung và những ý kiến riêng xung quanh các sự việc liên quan đến hòa bình, an ninh và hợp tác khu vực.

Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) xuất phát từ sáng kiến của Xin-ga-po được ASEAN ủng hộ, đã chính thức được thành lập tại Băng-cốc vào ngày 1-3-1996, gồm 25 thành viên ban đầu (7 nước ASEAN; 3 nước Đông Bắc Á; 15 nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), đến nay số thành viên ASEM đã tăng lên 51. Các nhà lãnh đạo Á - Âu quyết định thiết lập quan hệ đối tác mới toàn diện vì sự phát triển mạnh mẽ, nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai châu lục và thiết lập đối thoại chặt chẽ giữa các đối tác bình đẳng, qua đó tăng cường đối thoại chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh vực khác, đóng góp vào hòa bình, ổn định toàn cầu và thịnh vượng.

Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997 là thách thức nghiêm trọng đối với các quốc gia đang phát triển. Cùng với sự nỗ lực nội tại, ASEAN nhận được sự hỗ trợ thiết thực của ba nước Đông Bắc Á, tạo tiền đề cho việc thiết lập cơ chế ASEAN+3 (gồm các nước thành viên Hiệp hội cùng Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc), tiếp đó là cuộc họp giữa ASEAN với nhà lãnh đạo từng nước, tạo thành cơ chế ASEAN+1. Với vai trò “cầm lái” của ASEAN trong cơ chế này, sự hợp tác khu vực đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng vào việc đưa ASEAN ra khỏi khủng hoảng.

Tháng 12-2005, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) họp tại Ma-lai-xi-a gồm 16 thành viên (10 nước ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân và Ấn Độ). Mỹ và Nga tham dự với tư cách quan sát viên, đến năm 2011 trở thành thành viên chính thức. EAS được coi là một phần quan trọng trong phản ứng tập thể của khu vực trước những biến đổi sâu sắc diễn ra trên thế giới, như toàn cầu hóa, thách thức của hoạt động khủng bố quốc tế và ảnh hưởng mạnh mẽ của các loại h́ình công nghệ mới. Bên cạnh đó, EAS còn tạo thời cơ để định hình khu vực Đông Á theo hướng duy trì tối đa sự năng động kinh tế, tăng cường an ninh khu vực, giữ gìn hòa bình và ổn định giữa các nước thành viên.

Những biến động về tình hình an ninh trong những năm đầu thế kỷ XXI đã đặt ra sự cần thiết hợp tác giữa lực lượng quốc phòng các nước ASEAN. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) bắt đầu nhóm họp từ năm 2006 đã góp phần tích cực vào việc xây dựng lòng tin, củng cố đoàn kết, thúc đẩy tự cường khu vực, đối phó với các thách thức an ninh chung, nhất là thách thức an ninh phi truyền thống. Nhưng việc giải quyết vấn đề an ninh khu vực đòi hỏi phải có sự hợp tác rộng mở hơn với những quốc gia ngoài Đông Nam Á. Với nhận thức đó, ASEAN quyết định tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), với sự tham gia của 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng 8 nước đối tác, đối thoại gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân. Hội nghị ADMM+ lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội vào năm 2010.

Như vậy, cùng với việc trở thành một tổ chức toàn khu vực, ASEAN đồng thời đóng vai trò trung tâm, cầm lái trong các tổ chức liên quan, như ARF, ASEM, ASEAN+3, ASEAN+1, EAS và ADMM+... Hoạt động của các tổ chức này đã góp phần tăng cường sự gắn kết giữa các thành viên trong Hiệp hội, giữa Hiệp hội với các quốc gia bên ngoài có lợi ích gắn bó. Đây là những diễn đàn để trao đổi quan điểm về các vấn đề hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển, xây dựng niềm tin, tìm giải pháp giảm nhẹ căng thẳng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đặc biệt là về vấn đề Biển Đông, các hội nghị mới chỉ dừng lại ở chỗ tăng cường hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ mối quan ngại với một kết luận chung chung.

3- Đầu thế kỷ XXI, vượt qua khủng hoảng tài chính - tiền tệ, kinh tế Đông Nam Á dần dần khởi sắc. Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) ký năm 1992 đã đi được một chặng đường trong nhóm 6 nước đầu tiên, 4 nước gia nhập sau lần lượt hoàn tất quá trình này, kết thúc vào năm 2010. Việc thực hiện AFTA tạo cho ASEAN một thị trường thống nhất và một môi trường kinh tế năng động, là cầu nối để các nước ASEAN tham gia tích cực, có hiệu quả vào các tổ chức thương mại quốc tế, như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và mở rộng quan hệ song phương với các nước.

Để thúc đẩy sự hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên, ASEAN đề xuất nhiều chương trình hợp tác, như Chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mê-công, Chương trình hành động Hà Nội, Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI)... Theo xu hướng toàn cầu hóa, đã ra đời các hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với các nước ngoài Đông Nam Á, như với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và nhiều nước khác. Việc hình thành khu vực thị trường tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) tạo nên những bước đột phá, đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc (năm 2012). Mỹ cũng là đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN, ký hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương với một số nước ASEAN và ký hiệp định thương mại với Việt Nam (BTA).

Tuy vậy, ASEAN cũng đứng trước nhiều thách thức, trong đó khoảng cách về trình độ giữa hai nhóm nước trong ASEAN vẫn là trở ngại để tiến tới sự phát triển đồng đều, bền vững. Cơ chế lỏng lẻo của tổ chức cùng “phương thức ASEAN” đặt ra yêu cầu đổi mới để thích ứng với bước phát triển cao hơn, hiệu quả hơn, phù hợp hơn với xu hướng toàn cầu hóa. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN được tổ chức ở Ba-li (In-đô-nê-xi-a) năm 2003, lần đầu tiên khái niệm Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được đề xuất với mục tiêu đến năm 2020, ASEAN sẽ là khu vực sản xuất và thị trường chung với việc hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và lao động có tay nghề được dịch chuyển tự do.

Việt Nam bước vào “sân chơi ASEAN” khá muộn với một nền kinh tế vừa ra khỏi chiến tranh đầy khó khăn, cho tới nay mới hơn 20 năm. Song sự gia nhập ASEAN đã tạo lập một môi trường hòa bình, an ninh và ổn định có lợi cho sự phát triển kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư, tranh thủ mạnh mẽ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong, hòa vào dòng chảy chung của thị trường thế giới. Việt Nam thiết lập quan hệ kinh tế với các nước thành viên ASEAN, ký kết nhiều hiệp định thương mại với EU, với các nước lớn và nhiều quốc gia khác, trở thành thành viên của WTO.

4- Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ASEAN luôn đứng trước nhiều thách thức về an ninh truyền thống và phi truyền thống.

Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ, hoạt động khủng bố lan nhanh ở Đông Nam Á, từ Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a đến miền nam Thái Lan. Đông Nam Á là nơi tập trung 20% số tín đồ Hồi giáo trên thế giới, mặc dù theo xu hướng tương đối ôn hòa nhưng cũng có một bộ phận cực đoan. Điều nguy hiểm là nhiều nhóm Hồi giáo ở Đông Nam Á có mối liên hệ với tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng ở Xy-ri, có nguy cơ bị “IS hóa”. Tình hình đó buộc các chính phủ của các quốc gia thành viên ASEAN phải tăng cường hợp tác đấu tranh chống khủng bố. Hoạt động này cũng có ý nghĩa phối hợp với cuộc đấu tranh chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu.

Năm 2007, các nước ASEAN ký Công ước ASEAN về chống khủng bố, trong đó nêu rõ mục đích tạo nên khuôn khổ cho việc hợp tác khu vực nhằm ngăn ngừa, đấu tranh và trừng trị khủng bố dưới mọi hình thức; tăng cường sự hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật cũng như các cơ quan khác của các nước thành viên ASEAN trong đấu tranh chống khủng bố. Thủ tướng Xin-ga-po Lý Hiển Long nhận định, hiểm họa khủng bố ở châu Á là vấn đề nghiêm trọng và khó khăn, nguy cơ IS vươn tới Đông Nam Á đang ngày một gần. Nhưng cho đến nay, hành động hợp tác chống khủng bố vẫn có ý nghĩa biểu tượng nhiều hơn là thực tế, cuộc chiến chống tư tưởng Hồi giáo cực đoan “chỉ mới bắt đầu”. Hội nghị quốc tế chống khủng bố họp ở Ba-li (In-đô-nê-xi-a) tháng 8-2016 với sự tham dự của 30 quốc gia đã bàn những biện pháp trao đổi thông tin, chống tài trợ cho khủng bố, siết chặt các quy định về thẻ ngân hàng nhằm tránh bị lợi dụng vào việc cung cấp tài chính cho những kẻ khủng bố tham gia các cuộc xung đột ở nước ngoài. Các nước nhấn mạnh việc ngăn chặn nguy cơ lực lượng IS lan tràn vào Đông Nam Á, nhất là những người gốc Đông Nam Á đã đến Xy-ri nay trở về quê hương xây dựng lực lượng chiến binh IS. Rõ ràng, cuộc đấu tranh chống khủng bố vẫn luôn là mối quan tâm của ASEAN trong quá trình xây dựng một Đông Nam Á hòa bình và an ninh.

Một vấn đề nóng khác ngày càng nổi lên trong khu vực là vấn đề Biển Đông. Tuyên truyền luận điểm ngụy tạo về “đường 9 đoạn” (còn gọi là “đường lưỡi bò”, “đường chữ U” mà phán quyết của Tòa án Trọng tài thường trực (PCA) của Liên hợp quốc đã bác bỏ hồi tháng 7-2016), Trung Quốc đơn phương muốn chiếm một cách phi pháp 80% diện tích Biển Đông. Liên quan trực tiếp đến vấn đề Biển Đông có 5 nước, 6 bên là Việt Nam, Phi-líp-pin, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Trung Quốc và Đài Loan. Nhưng do vị trí chiến lược về mặt an ninh quốc phòng và là một trong những đường hàng hải quan trọng nhất, tấp nập nhất trên thế giới nên Biển Đông đã thu hút mối quan tâm của cả nhiều nước ngoài khu vực, nhất là Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ và EU. Năm 1992, lần đầu tiên ASEAN ra tuyên bố về Biển Đông, coi những diễn biến bất lợi ở Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực, là mối đe dọa đến an ninh toàn Đông Nam Á, không riêng một nước nào.

Sau một thời gian dài đàm phán, ngày 4-11-2002 tại Phnôm Pênh (Cam-pu-chia), ASEAN và Trung Quốc đã ký “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Đông. Các nước tham gia ký DOC cam kết tôn trọng các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC) và 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; cam kết việc xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau, tái khẳng định sự tôn trọng của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và hàng không trên vùng trời Biển Đông, chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi pháp luật bằng biện pháp hòa bình, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và các cuộc đàm pháp bởi các quốc gia có chủ quyền liên quan trực tiếp. Cho đến nay, DOC vẫn là văn kiện quan trọng nhất trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc về Biển Đông. Cuộc đàm phán về “Quy tắc về ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC)” giữa Trung Quốc và các nước ASEAN được bắt đầu từ tháng 4-2017, nhưng kết quả chưa được công bố.

Trước sự gia tăng hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, thái độ của các nước ASEAN vừa có điểm đồng, vừa có điểm bất đồng. Các nước Đông Nam Á cùng muốn duy trì hòa bình, an ninh, ổn định khu vực, bày tỏ sự quan ngại trước tình hình căng thẳng, kêu gọi các bên tôn trọng DOC và tiến tới ký kết COC. Nhưng do vị trí địa lý và mối quan hệ lợi ích với Trung Quốc về chính trị và kinh tế khác nhau nên giữa các nước ASEAN không tránh khỏi những quan điểm và chính sách khác nhau, thậm chí tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN được tổ chức ở Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) tháng 7-2012, các nước trong Hiệp hội đã không ra được Tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, tại các hội nghị những năm tiếp sau ở Mi-an-ma, Ma-lai-xi-a, Lào, Phi-líp-pin, mặc dầu có những tranh cãi gay gắt, nhưng các nước ASAEN đã cố gắng tránh lặp lại “sự cố Phnôm Pênh” bằng việc đưa vấn đề Biển Đông vào các Tuyên bố của nhiều diễn đàn khác.

5- Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN, tháng 12-1997 lãnh đạo các nước thành viên thông qua văn kiện Tầm nhìn ASEAN với mục tiêu tổng quát đưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một Cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”.

Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Ba-li (tháng 10-2003) ra Tuyên bố Hòa hợp Ba-li 2, trong đó khẳng định lại những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, quyết định đến năm 2020 (sau rút ngắn về năm 2015) sẽ hình thành một Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột chính là Cộng đồng an ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN, Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN.

Theo định hướng đó, bản Hiến chương ASEAN được soạn thảo và các nước phê chuẩn, có hiệu lực từ ngày 15-12-2008. Hiến chương khẳng định “ASEAN, với tư cách là một tổ chức liên chính phủ, từ nay có tư cách pháp nhân”, mối quan hệ nội khối mang tính ràng buộc chặt chẽ hơn, mỗi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các điều khoản trong Hiến chương. Hiến chương giữ vững những nguyên tắc nêu trong Hiệp ước Ba-li năm 1976 là tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của các quốc gia thành viên; thúc đẩy hòa bình và an ninh khu vực; không xâm lược, không đe dọa và sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; dùng biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp. Trên tinh thần “thống nhất trong đa dạng”, Hiến chương khẳng định sự tôn trọng những khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo của người dân ASEAN, đồng thời nhấn mạnh những giá trị chung của Đông Nam Á. Hiến chương ghi rõ một trong những nguyên tắc của ASEAN là “Tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, đẩy mạnh công bằng xã hội”. Có thể thấy đây là điểm mới, bởi lần đầu tiên văn kiện ASEAN chính thức đề cập đến vấn đề nhân quyền và kèm theo đó là việc thiết lập Cơ quan nhân quyền ASEAN. Hiến chương nhấn mạnh mối quan hệ với các đối tác bên ngoài nhằm không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của Cộng đồng ASEAN.

Sau quá trình thực hiện các công việc theo Lộ trình xây dựng Cộng đồng, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 tại Ma-lai-xi-a (tháng 11-2015) ra Tuyên bố Cu-a-la Lăm-pơ về việc hình thành Cộng đồng ASEAN. Ngày 31-12-2015 Cộng đồng ASEAN chính thức hình thành, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của Hiệp hội, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Đông Nam Á.

Điểm lại chặng đường 50 năm, có thể thấy ASEAN đã góp phần quan trọng vào sự đổi thay cơ bản tình hình và vị thếcủa khu vực, tạo nên một Đông Nam Á từ thuộc địa của thực dân phương Tây thành nơi tụ hội các quốc gia độc lập dưới nhiều thể chế chính trị khác nhau; từ một vùng nóng bỏng của thời kỳ Chiến tranh lạnh thành một khu vực hòa bình, an ninh, tương đối ổn định; từ những nền kinh tế phụ thuộc, tản mạn thành một thị trường kinh tế tự chủ được gắn kết nội khối và liên hệ với bên ngoài qua những hiệp định thương mại tự do; từ một Hiệp hội khá lỏng lẻo thành một Cộng đồng với ba trụ cột về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế.

Thành tựu đó là kết quả của một quá trình tìm hiểu và gặp gỡ những ý tưởng mong muốn xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Để tiếp tục phát triển theo định hướng đã vạch ra, đạt được những mục tiêu của Hiến chương, các dân tộc Đông Nam Á gắn bó trong một Cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau, có sự ổn định chính trị và an ninh, có vị trí được xác định trong nền kinh tế phát triển theo xu thế toàn cầu hóa, phát huy những sắc màu của nền văn hóa đa dạng và đem lại phúc lợi thiết thực cho mọi người dân,... đòi hỏi ý chí thống nhất và sự nỗ lực hết mình của các quốc gia thành viên. Về phần mình, trước sau như một, Việt Nam luôn là thành viên có những đóng góp tích cực, chủ động, có trách nhiệm trước vận mệnh của ASEAN và triển vọng của khu vực Đông Nam Á.

 Vũ Dương Ninh, GS, Đại học Quốc gia Hà Nội

 

 

 

Theo Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều