Khai thác, phát huy hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta trong bối cảnh xây dựng Chính phủ số, xã hội số

Cùng với quá trình phát triển khoa học - kỹ thuật, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, việc đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nói riêng là xu hướng không thể đảo ngược. Trên thế giới, nhiều nước đã có những bước tiến rất xa trong lĩnh vực này. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực.

Nhiệm vụ trung tâm, kết quả tích cực

Thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số” được xác định là một nội dung trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng. Để thực hiện thành công quá trình chuyển đổi số quốc gia có rất nhiều việc cần phải làm, trong đó rất quan trọng là xây dựng và kết nối các cơ sở dữ liệu, cốt lõi là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Theo Luật Căn cước công dân năm 2014: “Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là tập hợp thông tin cơ bản của tất cả công dân Việt Nam được chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ tầng thông tin để phục vụ quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Thông tin về công dân được thu thập, cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư gồm 15 trường thông tin quy định tại Khoản 1, Điều 9, Luật Căn cước công dân và đây là cơ sở dữ liệu dùng chung do Bộ Công an quản lý. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là dữ liệu gốc, nền tảng để xây dựng Chính phủ điện tử, giúp kết nối, chia sẻ thông tin dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác, làm tăng khả năng khai thác, cập nhật thông tin dân cư, hạn chế tối đa sự trùng lặp thông tin, giảm chi phí đầu tư từ ngân sách nhà nước, khắc phục những bất cập trong công tác quản lý thông tin dân cư mang tính đơn lẻ giữa các ngành hiện nay. Cùng với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, việc nghiên cứu triển khai cấp thẻ căn cước công dân mới có gắn chíp điện tử sẽ tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh phục vụ tốt nhất các yêu cầu kết nối, chia sẻ thông tin, phục vụ quá trình chuyển đổi số quốc gia.

 Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ khai trương hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hệ thống sản xuất cấp và quản lý căn cước công dân của Bộ Công an _Ảnh: TTXVN
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 366/QĐ-TTg, ngày 11-3-2020, “Về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư” và Quyết định số 1368/QĐ-TTg, ngày 3-9-2020, “Về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân”. Đây là 2 dự án công nghệ thông tin lớn nhất từ trước tới nay ở nước ta, chưa có tiền lệ, phạm vi triển khai rộng, từ các cơ quan Trung ương đến 63 tỉnh, thành phố với hơn 700 quận, huyện và gần 11.000 xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Trong khi đó, việc triển khai trong thời điểm đại dịch COVID-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu đã đặt ra nhiều thách thức rất lớn, đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao và hành động quyết liệt, sáng tạo mới có thể hoàn thành các mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, tính cấp bách của 2 dự án và những khó khăn, thách thức đặt ra, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Công an đã khẩn trương tổ chức, triển khai thực hiện, trong đó xác định việc xây dựng 2 dự án vừa là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị, vừa là mệnh lệnh công tác và cũng là danh dự của lực lượng công an nhân dân. Bộ Công an đã thành lập Ban Chỉ đạo để triển khai thực hiện do đồng chí Bộ trưởng trực tiếp làm Trưởng Ban, 3 đồng chí Thứ trưởng làm Phó Trưởng Ban và các cục nghiệp vụ liên quan tham gia. Đồng thời, xác định việc thực hiện 2 dự án là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của toàn lực lượng và tập trung chỉ đạo thực hiện rất quyết liệt, với lộ trình và bước đi cụ thể kèm theo các mốc thời gian tính theo từng ngày (trong đó xác định 48 nhiệm vụ lớn để thực hiện dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; 55 nhiệm vụ lớn để thực hiện dự án căn cước công dân; đồng thời, yêu cầu các nhà thầu cũng phải xây dựng kế hoạch chi tiết với các mốc thời gian cụ thể, tương ứng với kế hoạch chung của dự án); với phương châm chỉ đạo xuyên suốt là phải bảo đảm hiện đại, đồng bộ, bảo mật cao, tránh lãng phí; đồng thời, với tinh thần “vừa chạy, vừa xếp hàng”, vượt lên chính mình để đạt mục tiêu đến ngày 25-2-2021 bấm nút khai trương 2 hệ thống và cơ bản hoàn thành 2 dự án trước ngày 1-7-2021.

Trong quá trình triển khai, Bộ Công an thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành (nhất là Bộ Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ban Cơ yếu Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước...) để bảo đảm sự đồng bộ trong quá trình thực hiện, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Đồng thời, Bộ Công an rất cầu thị lắng nghe, tiếp thu ý kiến của dư luận và nhân dân đối với những vấn đề liên quan để có sự điều chỉnh phù hợpĐồng chí Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng Ban chỉ đạo và lãnh đạo Bộ Công an đã sâu sát đôn đốc, chỉ đạo thực hiện quyết liệt đến tận cấp xã, phường; thường xuyên giao ban và tổ chức hàng trăm cuộc họp, hội ý nghiệp vụ để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh tại các khu vực, vùng, miền trong cả nước. Đến nay, tiến độ thực hiện 2 dự án cơ bản theo kế hoạch đã đề ra và đạt được những kết quả tích cực. Nổi bật là:

Bộ Công an đã phối hợp với các bộ, ngành tiến hành rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến triển khai 2 dự án; trong đó, phối hợp với các bộ, ngành rà soát 5 luật, 2 nghị định, 12 thông tư cần sửa đổi; đã xây dựng, đề xuất Quốc hội thông qua Luật Cư trú (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2021; đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định số 37/2021/NĐ-CP, ngày 29-3-2021, “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 137/2015/NĐ-CP, ngày 31-12-2015, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân”; Bộ Công an ban hành Thông tư số 06/2021/TT-BCA, ngày 23-1-2021, “Quy định về mẫu thẻ Căn cước công dân” có gắn chíp điện tử và đang tích cực xây dựng các văn bản khác, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và việc sản xuất, cấp, quản lý căn cước công dân.

Lực lượng công an nhân dân đã cơ bản hoàn thành việc thu thập, cập nhật, bổ sung thông tin dân cư và nhập liệu vào hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Xác định một trong những vấn đề có tính nguyên tắc bảo đảm xây dựng thành công cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là thông tin đưa vào cơ sở dữ liệu phải đầy đủ, chính xác và được bổ sung, cập nhật thường xuyên. Bộ Công an đã ban hành các quy trình, quy chế cụ thể, gắn với trách nhiệm của từng cấp công an trong công tác này; chỉ đạo các lực lượng ở cơ sở (cảnh sát khu vực, công an xã) “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng trường hợp” để cập nhật, bổ sung thông tin, bảo đảm thông tin dân cư “đúng, đủ, sạch, sống” trước khi đưa vào cơ sở dữ liệu. Đến tháng 4-2021, đã thu thập được 99,05% số phiếu thông tin dân cư trên toàn quốc, quá trình thực hiện đã tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến các trường hợp nhân khẩu đặc biệt, dân di cư tự do, dân cư trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Đồng thời, phối hợp với Bộ Tư pháp rà soát, cập nhật trên 47.600 trường hợp thôi quốc tịch; gần 5 triệu trường hợp thay đổi thông tin trong hộ tịch để phục vụ việc làm sạch dữ liệu; cấp số định danh cá nhân cho hơn 5,3 triệu trẻ em mới sinh.

Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân làm căn cước công dân cho các sư tăng, đồng bào Khmer ở tỉnh Sóc Trăng _Ảnh: TTXVN 
Bộ Công an triển khai toàn diện các gói thầu thực hiện các hạng mục công việc thuộc “phần lõi” của 2 dự án, bảo đảm nguyên tắc hiện đại, đồng bộ, bảo mật cao, tránh lãng phí. Quá trình thiết kế kỹ thuật 2 dự án, Bộ Công an đã chỉ đạo lựa chọn công nghệ tiên tiến, hiện đại hàng đầu hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp chặt chẽ để thẩm định bảo đảm yêu cầu này. Các thiết bị của dự án (như hệ thống máy chủ, máy trạm, thiết bị mạng, bảo mật...) đều được kiểm soát chính hãng ngay từ nguồn gốc, bảo đảm xuất xứ từ các nước Mỹ, G7, EU, ASEAN và được kiểm tra kỹ, bảo đảm an ninh, an toàn trước khi đưa vào sử dụng. Thiết kế hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân được xây dựng tập trung gồm Trung tâm dữ liệu của 2 dự án tại Hà Nội (tại trụ sở Bộ Công an số 47, Phạm Văn Đồng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội) và Trung tâm dữ liệu dự phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh (số 258, Nguyễn Trãi, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) bảo đảm khang trang, hiện đại phục vụ các cơ quan, tổ chức, cá nhân đến tra cứu, khai thác. Đặc biệt, Bộ Công an đã chỉ đạo thiết kế, xây dựng hệ thống bản đồ số là “bộ não” của Trung tâm dữ liệu, trong đó xây dựng giải pháp phân tích, tổng hợp, dự báo tình hình dân cư để góp phần hoạch định các chính sách kinh tế, quốc phòng, an ninh theo từng giai đoạn. Việc bảo mật, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống được quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, theo đó hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân được xây dựng với yêu cầu an toàn thông tin cấp độ 4 đối với thông tin quan trọng quốc gia theo quy định tại Nghị định số 85/2016/NĐ-CP, ngày 1-7-2016, của Chính phủ “Về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ”; đường truyền và các phương án bảo mật đã được bố trí từ Trung ương đến cấp xã. Bộ Công an đã phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ áp dụng giải pháp bảo mật cơ yếu, xác thực, ký số toàn vẹn dữ liệu, bảo mật kênh truyền cho hệ thống cơ sở dữ liệu quan trọng này.

Để bảo đảm tránh lãng phí, ngay từ đầu, Bộ Công an đã chỉ đạo nhiều giải pháp không để phát sinh tăng vốn, đặc biệt là lồng ghép thực hiện 2 dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân (trong đó, 2 dự án này đã dùng chung trung tâm dữ liệu, đường truyền và bảo mật, không phải đầu tư riêng lẻ..., qua đó đã giảm tổng mức đầu tư so với phương án ban đầu với số tiền trên 1.300 tỷ đồng)Ngoài ra, để bảo đảm khách quan, đúng quy định pháp luật về chi tiêu ngân sách, không để thất thoát tài sản nhà nước, Bộ Công an chủ động đề nghị Kiểm toán nhà nước vào cuộc giám sát ngay từ đầu với nguyên tắc làm xong đến đâu kiểm toán đến đó; đồng thời, chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp để kiểm soát, giám sát chặt chẽ các khâu, các quá trình thực hiện, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng tiêu cực, làm thất thoát, lãng phí kinh phí đầu tư của Nhà nước.

Do có sự chủ động chuẩn bị và tinh thần triển khai thần tốc, chỉ trong thời gian ngắn, từ tháng 9-2020 (sau khi Thủ tướng Chính phủ có quyết định phê duyệt dự án sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân), đến tháng 4-2021, Bộ Công an đã chính thức đồng loạt cấp thẻ căn cước mới cho công dân trên toàn quốc với nhiều ưu điểm nổi bật (thẻ có gắn chíp điện tử với phương án bảo mật cao; bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế; thiết kế bảo đảm thẩm mỹ, bền, đẹp...), mở ra cơ hội mới trong việc ứng dụng phát triển các dịch vụ bảo đảm an ninh, an toàn, cải cách hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, nhờ có sự lồng ghép 2 dự án, Bộ Công an đã chỉ đạo cải cách tối đa thủ tục cấp căn cước cho công dân, theo đó người dân không phải kê khai bất cứ loại giấy tờ gì khi làm thủ tục, góp phần tiết kiệm thời gian, công sức rất lớn. Đến hết tháng 4, đã hoàn thiện thủ tục cấp gần 40 triệu thẻ căn cước trên toàn quốc, hướng tới mục tiêu cấp 50 triệu thẻ trước ngày 1-7-2021.

Trong điều kiện khó khăn về biên chế, Bộ Công an đã cố gắng bố trí đủ nguồn nhân lực thực hiện 2 dự án từ Trung ương tới cơ sở, gắn với điều chỉnh, bố trí lực lượng tại 4 cấp công an theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”. Đến tháng 4-2021, đã hoàn thành bố trí công an xã chính quy tại 100% số xã, thị trấn với gần 45.000 cán bộ, chiến sĩ (bảo đảm trung bình mỗi xã có 5 đồng chí có thể đáp ứng yêu cầu thu thập, cập nhật, bổ sung thông tin dân cư hằng ngày ngay từ địa bàn cơ sở); bố trí đủ nguồn nhân lực có trình độ công nghệ thông tin thực hiện quản trị, vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tại các cấp công an; tổ chức đào tạo, tập huấn cho hơn 23.600 cán bộ về hệ thống phần mềm, bảo mật trong dự án dân cư và hơn 1.700 cán bộ thu nhận vân tay thực hiện các thủ tục cấp căn cước...

Cán bộ, chiến sĩ Công an tỉnh Hải Dương đến tận nhà người dân để làm thủ tục cấp thẻ căn cước công dân gắn chip điện tử _Ảnh: danviet.vn 
Để khai thác, phát huy hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư

Với sự nỗ lực và quyết tâm cao, ngày 25-2-2021, Bộ Công an đã tổ chức Lễ khai trương Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân, đánh dấu những thành công bước đầu của 2 dự án, tạo tiền đề vững chắc để cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoàn thiện và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-7-2021. Việc xây dựng, hình thành bước đầu cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư ở nước ta là một dấu mốc quan trọng. Tuy nhiên, việc khai thác phát huy hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong công tác quản lý nhà nước, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số là một quá trình cần phải tiếp tục thực hiện, đòi hỏi sự chuyển động đồng bộ của các cấp, các ngành và toàn thể người dân tham gia, hướng tới xây dựng xã hội số tại Việt Nam. Trong đó, những nội dung chính trong khai thác và phát huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cần được quan tâm là:

Thứ nhất, từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nhất là hệ thống bản đồ số tại Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư, các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương tới địa phương tiến hành khai thác, tra cứu, phân tích thông tin về dân cư trên phạm vi toàn quốc hoặc theo các lĩnh vực, địa bàn để phục vụ hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là thông tin đã được chuẩn hóa đến từng cá nhân và được bổ sung, cập nhật thường xuyên hằng ngày, hằng giờ nên bảo đảm độ chính xác cao; những biến động về dân cư trên các khu vực, địa bàn, vùng, miền cũng được phân tích, đánh giá và dự báo, từ đó sẽ cung cấp thông tin chính xác cho việc xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước cũng như theo từng lĩnh vực, địa bàn.

Thứ hai, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, giảm chi phí giấy tờ, thủ tục hành chính. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng các hệ thống phát triển Chính phủ điện tử. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cùng với hệ thống sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân đi vào hoạt động sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin cơ bản có đầy đủ tính pháp lý về công dân. Thay vì người dân, doanh nghiệp phải khai báo, nộp, chứng thực các giấy tờ khi thực hiện các giao dịch với cơ quan nhà nước thì các thông tin đó sẽ được trích xuất tự động khi thực hiện các giao dịch hoặc các cơ quan nhà nước tra cứu, khai thác từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, từ đó, giúp giảm bớt thời gian chuẩn bị hồ sơ, giảm chi phí giấy tờ, thời gian xác minh, đi lại cho công dân trong thực hiện các thủ tục hành chính. Theo tính toán, hằng năm những nội dung nêu trên sẽ tiết kiệm chi phí “cả định lượng và không thể định lượng” cho người dân và xã hội là rất lớn.

Thứ ba, phát huy giá trị của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tiến hành đổi mới công tác quản lý cư trú từ thủ công sang hiện đại; bảo đảm tốt hơn quyền cư trú của công dân theo quy định của pháp luật. Ngày 30-10-2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP, “Về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công an”, trong đó, quy định: Bãi bỏ hình thức quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng sổ hộ khẩu và thay thế bằng hình thức quản lý thông qua mã số định danh cá nhân. Việc bãi bỏ sổ hộ khẩu là bước đột phá trong việc quản lý dân cư, thay thế phương thức quản lý dân cư từ thủ công sang quản lý điện tử bằng mã số định danh cá nhân xác lập từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Số định danh cá nhân được ghi trên giấy khai sinh và thẻ căn cước công dân để phục vụ công dân khi thực hiện các thủ tục hành chính. Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 112/NQ-CP, Bộ Công an đã đề xuất Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Cư trú (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1-7-2021. Luật Cư trú (sửa đổi) quy định việc thay thế quản lý cư trú (thường trú, tạm trú) từ phương thức thủ công bằng sổ giấy sang phương thức quản lý hiện đại bằng công nghệ thông tin, thông qua sử dụng mã số định danh cá nhân để truy cập, cập nhật, điều chỉnh trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ quan, tổ chức và công dân có thể khai thác, sử dụng các thông tin này theo quy định của pháp luật để phục vụ các giao dịch dân sự, giải quyết thủ tục hành chính và các yêu cầu khác; cùng với quá trình này, 13 nhóm thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký, quản lý cư trú, tạm trú của công dân sẽ được bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ... Đây là bước tiến quan trọng của Nhà nước trong công tác quản lý cư trú, phù hợp với xu thế chung của thế giới, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện tốt hơn quyền tự do cư trú đã được hiến định.

Thứ tư, trên cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia và dữ liệu về căn cước công dân để tiếp tục phát triển các dữ liệu nghiệp vụ chuyên ngành của lực lượng công an nhân dân, góp phần đổi mới phương thức thực hiện các biện pháp nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới và hướng tới phấn đấu xây dựng lực lượng công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, hiện đại vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Những nội dung nêu trên cho thấy, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và dữ liệu căn cước công dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Việc hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mới chỉ là bước đầu của một quá trình chuyển đổi mang tính đột phá ở nước ta, còn rất nhiều việc phải làm để hoàn thiện quá trình chuyển đổi này. Để tiếp tục khai thác, phát huy cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:

Một là, khẩn trương hoàn thiện đầy đủ và duy trì hoạt động hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm thông tin dân cư trên cả nước được bổ sung, cập nhật thường xuyên theo nguyên tắc “đúng, đủ, sạch, sống”. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, nếu thông tin không chính xác sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quy trình tiếp theo khi các cơ quan, tổ chức khai thác, sử dụng, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người dân. Việc thu thập, tập hợp đầy đủ, chính xác thông tin của công dân Việt Nam để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã khó, việc duy trì bổ sung, cập nhật thường xuyên những biến động hằng ngày, hằng giờ của thông tin dân cư còn khó khăn hơn, nhất là trong điều kiện dân cư đa dạng và thường xuyên biến động như hiện nay. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực rất lớn trên phạm vi rộng (63 tỉnh, thành phố; hơn 700 quận, huyện và gần 11.000 xã, phường, thị trấn trong toàn quốc), đồng thời có các quy trình cụ thể, khoa học để kiểm soát những biến động này. Bộ Công an đã tăng cường gần 45.000 công an chính quy xuống xã, đồng thời ban hành các quy định cụ thể để duy trì thường xuyên việc bổ sung, cập nhật thông tin dân cư.

Hai là, xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ để khai thác có hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Tập trung xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Cư trú (sửa đổi); xây dựng các quy định về khai thác, kết nối, chia sẻ thông tin công dân trong quá trình kết nối, khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đặc biệt, sớm ban hành nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân của công dân, bảo đảm chặt chẽ, bảo vệ thông tin cá nhân của người dân theo đúng quy định của pháp luật.

Ba là, tạo sự chuyển biến đồng bộ của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong xây dựng, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về quá trình chuyển đổi số quốc gia. Phát huy vai trò điều tiết của Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử trong việc chỉ đạo các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các địa phương kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính; phát triển các ứng dụng tích hợp trong chíp điện tử trên thẻ căn cước công dân để quản lý ngành, lĩnh vực được phân công..., góp phần thực hiện thành công quá trình chuyển đối số quốc gia tại Việt Nam.

Bốn là, đổi mới tư duy, phương pháp quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên cơ sở ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và dữ liệu về căn cước công dân, nhất là thực hiện có hiệu quả lộ trình chuyển đổi phương thức quản lý cư trú bằng sổ hộ khẩu giấy sang quản lý bằng điện tử thông qua mã số định danh cá nhân; kết nối các dữ liệu nghiệp vụ; nâng cao trình độ, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ quản lý, từng bước trang bị các công cụ, phương tiện hiện đại... để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới./.

Theo NGUYỄN DUY NGỌC/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều