Một số đề xuất về định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV của UBTƯ MTTQ Việt Nam

(Mặt trận) - Tháng 3/2021, Bộ Chính trị phân công Đảng đoàn Quốc hội chuẩn bị Đề án Định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, đây là nội dung rất quan trọng và có ý nghĩa nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế, tạo lập khung khổ pháp lý thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Với vai trò là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc đề xuất xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích của Nhân dân.

Trong những năm qua, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên một số lĩnh vực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; thực hành dân chủ, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; tăng cường đồng thuận xã hội; góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở nước ta.

Trước hết, phải kể đến những quy định trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều nội dung liên quan đến đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong hệ thống pháp luật thời gian qua là Quốc hội đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015. Luật đã thể chế hóa Điều 9 Hiến pháp 2013 về vị trí, vai trò, quyền, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và đặc biệt là “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 và “Quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã pháp điển hóa và bổ sung có chọn lọc những quy định chủ yếu về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được thực hiện ổn định, có hiệu quả trong thực tiễn nhằm quy định toàn diện, tập trung và cụ thể hơn về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Có thể nói đây là văn bản pháp lý quan trọng, góp phần đưa việc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng hiệu quả, góp phần nâng cao dân chủ, tạo đồng thuận xã hội trong tình hình mới.

Mặc dù trong thời gian qua, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã ngày càng chú trọng, chủ động hơn trong nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất xây dựng chính sách, pháp luật, nhưng công tác này chưa phát huy hiệu quả cao, chưa kịp thời, thiếu tính dự báo nên ảnh hưởng tới quá trình đề xuất và xây dựng chính sách, pháp luật. Việc đánh giá tác động chính sách nói chung trong quá trình xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật còn một số hạn chế. Công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong hệ thống Mặt trận và các tổ chức thành viên kết quả mang lại chưa cao.

Đề xuất nội dung định hướng chương trình xây dựng pháp luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XV

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng, mang lại hiệu quả cao trong công tác Mặt trận, góp phần xây dựng đồng thuận xã hội, thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước trong những năm qua. Bên cạnh những ưu điểm, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định như: nhiều quy định trong Luật Mặt trận Tổ quốc còn là các quy định khung, chưa đủ cụ thể, do đó khó khăn trong triển khai, tổ chức thực hiện, hiệu lực, hiệu quả thấp. Nhiều quy định không mang tính bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, nhất là trong việc tiếp thu, xem xét giải quyết các kiến nghị sau giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận. Mối quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên và giữa các tổ chức thành viên với nhau, nhận thức về nguyên tắc phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận chưa rõ nét và chưa đầy đủ.

Việc đa dạng hoá các hình thức tập hợp Nhân dân chưa có nhiều đổi mới nên chưa có sức thu hút mạnh mẽ. Việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tham gia vào hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, điều kiện bảo đảm hoạt động chưa ngang tầm nhiệm vụ, vị trí, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Vì vậy, cần sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam một cách toàn diện, theo hướng mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh Luật, quy định cụ thể hơn các quyền, trách nhiệm của Mặt trận và mối quan hệ giữa Mặt trận với các cơ quan nhà nước, tổ chức đảng, Nhân dân, cũng như quan hệ giữa Ủy ban Mặt trận với các tổ chức thành viên Mặt trận, giữa các thành viên Mặt trận với nhau theo tinh thần đổi mới của Đại hội XIII của Đảng.

Dự án Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân

Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã chỉ rõ: "Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của Nhân dân"; “Xây dựng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và Nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”; và “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng vừa qua (năm 2021) cũng đã chỉ rõ hạn chế hiện nay là "Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ"1 và đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp trong giai đoạn mới liên quan đến phát huy dân chủ và tăng cường giám sát của Nhân dân, đó là: "Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"2; "Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân"3; "Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân"4; "Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước"5...

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó Chương trình hành động số 03 của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2019 - 2024 nêu rõ "Nghiên cứu đề xuất xây dựng Dự án Luật về hoạt động giám sát của Nhân dân".

Thể chế hóa quan điểm của Đảng, các bản Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đều hiến định quyền giám sát của Nhân dân. Đồng thời, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định trực tiếp hoặc liên quan đến quyền giám sát của Nhân dân như: Luật Thanh tra năm 2004, năm 2010; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, các văn bản pháp luật về dân chủ ở cơ sở; pháp luật khiếu nại, tố cáo, báo chí... Đây là tiền đề pháp lý quan trọng để Nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Nhân dân, nhất là giám sát trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức xã hội của Nhân dân còn chung chung, ít khả thi, tản mạn, rải rác ở nhiều văn bản pháp luật với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau. Vì vậy, rất cần thiết xây dựng dự án Luật Hoạt động giám sát của Nhân dân.

Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai số 45/2013/QH13

Luật Đất đai được ban hành và có hiệu lực đã tạo hành lang pháp lý để mọi cá nhân, tổ chức thực hiện quyền và trách nhiệm của mình. Trong những năm qua công tác tổ chức, quản lý về đất đai đã đem lại nhiều kết quả thiết thực, góp phần thực hiện dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của cá nhân, tổ chức được bảo đảm hơn.

Tuy nhiên, hiện nay một số quy định của Luật Đất đai không còn phù hợp với thực tiễn, chưa đồng bộ với một số luật khác trong hệ thống pháp luật đã làm nảy sinh nhiều tranh chấp, mâu thuẫn, dẫn đến khiếu kiện, tố cáo phức tạp, đông người, kéo dài nhiều năm... ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng mất ổn định, an ninh trật tự và an toàn xã hội. Những năm gần đây các khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài... chủ yếu liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất đai như các quy định trong việc sử dụng đất, về bồi thường, đền bù, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất. Chính vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của Luật Đất đai còn hạn chế, chưa thực sự tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Từ việc xác định những bài học kinh nghiệm thành công trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là "kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn" và "tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển", Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những định hướng quan trọng để phát triển đất nước là "Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh". Trong đó, lĩnh vực đất đai được Nghị quyết Đại hội XIII xác định là trọng tâm ưu tiên "Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đất đai...".

Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định phải "Xây dựng cơ chế minh bạch đánh giá giá trị đất đai, bất động sản theo cơ chế thị trường".

Ngoài các văn bản nêu trên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đề xuất trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung một số Luật liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân như: Luật Công đoàn; Luật Bảo hiểm xã hội... Xây dựng và ban hành Luật thực hiện Dân chủ ở cơ sở.

Một số kiến nghị, đề xuất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng đề án định hướng chương trình xây dựng pháp luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV

Một là, đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng Đề án Định hướng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV cần bám sát vào những tư tưởng mới trong Văn kiện Nghị quyết lần thứ XIII của Đảng, trong đó cần thể chế những tư tưởng mới về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; về phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng"; về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước...

Hai là, tập trung xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV những văn bản liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của Nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để điều kiện cho người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và các quyền tự do, dân chủ khác, phát huy tự quản cộng đồng; trách nhiệm của công dân trong xây dựng Nhà nước, tham gia ý kiến trong giai đoạn xây dựng chính sách, pháp luật và tham gia giám sát cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Tiếp tục nghiên cứu luật hóa các quyền hiến định của công dân về quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình... theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để ghi nhận, bảo đảm vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Từ đó, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo hơn nữa trong việc thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện pháp luật.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, giám sát trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời phát hiện các văn bản có nguy cơ dẫn đến tham nhũng, lợi ích nhóm. Tăng cường vai trò và hiệu lực của công tác thẩm tra các dự án Luật trong nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XV, không chỉ thẩm tra tập trung vào tính đồng bộ, thống nhất, nguy cơ trái luật, trái Hiến pháp của văn bản, mà cần tập trung ngăn chặn nguy cơ "cài chính sách" đồng thời khắc phục tình trạng "tuổi" của một số luật, quy định của luật quá ngắn, liên tục phải sửa đổi, bổ sung.

Chú thích:

1,2,3,4,5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Hà nội. 2021,Tập I, tr.89, 173, 176, 202, 224.

Đặng Thị Kim Ngân

ThS, Ban Dân chủ - Pháp luật, UBTW MTTQ Việt Nam

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều