Phát huy giá trị văn hóa chính trị truyền thống theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

(Mặt trận) - Văn hóa của một dân tộc không chỉ phản ánh tâm hồn, khí phách, bản lĩnh, bản sắc, truyền thống lịch sử, mà còn thể hiện sức sống mãnh liệt, sức sáng tạo to lớn, sức đề kháng mạnh mẽ được tích lũy qua hàng ngàn năm mở nước - dựng nước - giữ nước của dân tộc. Là một bộ phận, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa nhân loại và văn hóa của quốc gia - dân tộc, văn hóa chính trị tại Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Bài viết tiếp cận văn hóa dưới góc độ văn hóa chính trị truyền thống để một lần nữa khẳng định và phát huy những giá trị đó trong bối cảnh hiện nay.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm ao cá Bác Hồ. Ảnh: Trí Dũng/TTXVN 
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; đồng thời, coi trọng xây dựng và phát huy niềm tự hào dân tộc, ý chí tự cường, sức sáng tạo, tinh thần cống hiến vì đất nước, khát vọng phát triển thịnh vượng, lòng nhân ái, sự đồng thuận xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đây là nội dung được nhấn mạnh và nhắc đến nhiều lần, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng trong phát huy giá trị văn hóa thời kỳ mới. Đánh giá về những hạn chế của văn hóa hiện nay, Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”1. Thực tế đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý cần có chiến lược để phát huy mạnh mẽ hơn nữa những giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống xã hội, nhằm đưa văn hóa phát triển tương xứng với các lĩnh vực khác trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước bền vững, toàn diện.

Giá trị văn hóa chính trị truyền thống được thể hiện trước hết ở lòng yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc

Yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc là giá trị văn hóa chính trị cơ bản trong hệ thống những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống. Bởi tinh thần yêu nước, lòng thương dân, lấy dân làm gốc là sản phẩm tinh thần vô cùng cao quý của dân tộc Việt Nam; là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng, giữ vị trí chuẩn mực của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá trị của dân tộc. Tinh thần đó đã phát huy sức mạnh vô biên của nó trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là mẫu số chung, là động lực nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Nói về chủ nghĩa yêu nước, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua lịch sử Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là hướng đi, thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo Việt Nam”2. Cho nên, văn hóa chính trị Việt Nam có từ rất sớm và trước hết là văn hóa yêu nước, là văn hóa vì nước, vì dân. Trung thành với đất nước, với Tổ quốc Việt Nam, thương dân, yêu nước là tư tưởng bao trùm lên tất cả.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định “lấy dân làm gốc” là cơ sở cho việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò của Nhân dân được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội Đảng lần thứ VII: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Quyết liệt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng người cán bộ, đảng viên. Tăng cường kỷ cương, xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ, không có vùng cấm trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đảng viên, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo cần nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, có lối sống trong sáng, “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”, trở thành người công bộc, là chỗ dựa, niềm tin yêu của Nhân dân.

Quan điểm “Lấy dân làm gốc” được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII. Một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng hàng đầu, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “Dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Lấy phục vụ Nhân dân làm động lực và mục tiêu phấn đấu, luôn tin tưởng tôn trọng và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định tư tưởng “Dân là gốc” là kim chỉ nam quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đất nước kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách thức trong bối cảnh mới.

Hơn lúc nào hết, chúng ta cần thấm nhuần bài học “Nước lấy dân làm gốc”; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa của con người Việt Nam. Người dân không chỉ được làm chủ thật sự, mà còn được “giám sát” và “thụ hưởng” những thành quả của chế độ xã hội mang lại, khích lệ tinh thần tích cực của Nhân dân, phát huy vai trò, vị trí người dân trong mọi quan hệ xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ dặn: “Cái gì quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiệm các sai phạm”3. Đó chính là ý nghĩa sâu xa của việc “Lấy dân làm gốc” mà Đảng ta đã đề ra và tiếp tục hướng tới.

Giá trị văn hóa chính trị truyền thống thể hiện ở tư tưởng chính trị độc lập, tự chủ, tự cường

Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm dai dẳng và kéo dài. Con người Việt Nam, trí tuệ và sức mạnh sáng tạo, nhân cách và bản lĩnh của con người Việt Nam được hình thành trong các phong trào giải phóng dân tộc và kết tinh trong tư tưởng và sức mạnh đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, dân tộc, trong bảo vệ và xây dựng đất nước. Những giá trị và tình cảm, tinh thần đó kết tụ thành các giá trị văn hóa truyền thống, thành tư tưởng chủ đạo trong đường lối giữ nước và chấn hưng đất nước, thành nội dung chính trị của các nhà chính trị, các triều đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Độc lập, tự chủ, tự cường trở thành những giá trị văn hóa chính trị đặc sắc của truyền thống chính trị Việt Nam.

Trong điều kiện hiện nay, để biến khát vọng về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu thành hiện thực, cần phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường của ông cha ta và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sự kết tinh của bản lĩnh chính trị trên cơ sở nhãn quan đúng đắn, có tinh thần chủ động và ý chí lớn lao để hành động một cách phù hợp nhằm đạt được mục tiêu. Để phát huy được tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong điều kiện hiện nay, cần phải chú trọng một số nội dung như: (1) Ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế; (2) Ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; (3) Ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng; (4) Ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng, phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân; (5) Ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Sau 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực to lớn chưa từng có. Những thành tựu đáng tự hào đó là sự hội tụ của nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến sức mạnh của ý chí tự lực, tự cường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã coi phát huy nội lực, ý chí tự lực, tự cường là một trong những động lực quan trọng để phát triển đất nước hiện nay. Để phát huy nội lực, trước hết, chúng ta phải phát huy sức mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp đó là, đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, cần được tiếp tục phát huy. Ngay trong chủ đề Đại hội XIII đã nhấn mạnh chủ trương “sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”. Nói đến sức mạnh thời đại là nói đến sức mạnh của hợp tác quốc tế và khoa học, công nghệ. Ngày nay, dù hướng ra bên ngoài để gia tăng nội lực là xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia nhưng nội lực vẫn là quyết định và chỉ khi thực sự có nội lực, ta mới có thể đưa ra quan điểm độc lập của mình về các vấn đề quốc tế và tiến hành “hòa nhập” mà không “hòa tan”.

Sức mạnh nội sinh của một dân tộc không phải là những điều “mặc định” và “bất biến” nên để phát huy nội lực thì phải tiếp tục phát huy tinh thần tự lực, tự cường vốn là nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt Nam và đã được Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới. Những chỉ dẫn quý báu về tinh thần tự lực, tự cường ngày càng tỏ rõ giá trị và tiếp tục soi đường cho dân tộc Việt Nam trong hành trình tiến tới “sánh vai với các cường quốc năm châu” như khát vọng lớn lao mà Người đã ký thác lại cho toàn Đảng, toàn dân ta.

Giá trị văn hóa chính trị truyền thống thể hiện ở tư tưởng về một nền chính trị pháp quyền

Nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật, lịch sử văn hóa dân tộc từ trước đến nay đều cho rằng, công cụ chính để duy trì đời sống cộng đồng là một hệ thống tục lệ ra đời từ rất sớm, từ thời các vua Hùng. Đến giữa thế kỷ XV, hệ thống tục lệ ngày càng trở nên hoàn thiện trở thành hương ước. Việc quản lý xã hội chủ yếu bằng hương ước đã dẫn đến người Việt từ bao đời quen sống với tục lệ. Mặc dù vậy, từ chiều sâu của lịch sử và văn hóa dân tộc, nhận diện được những giá trị về một tư tưởng nhất quán rằng: Xây dựng một nền chính trị coi trọng luật pháp, mong muốn dùng luật pháp để quản lý xã hội nhà nước Việt Nam.

Sau khi đã định đô ở Thăng Long, năm Nhâm Ngọ (1042), nhà Lý cho ra đời bộ Hình thư. Sự kiện này được các nhà nghiên cứu sử học và luật học đánh giá là sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử nhà nước pháp luật Việt Nam. Hình thư được xem như bộ luật thành văn đầu tiên, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, chứng tỏ bộ máy nhà nước trung ương tập quyền đã có tính ổn định và được xây dựng với thiết chế tương đối hoàn bị, thể hiện một tầm nhìn rộng và trình độ cao của tổ chức bộ máy nhà nước đương thời, một xã hội văn minh được quản lý bằng pháp luật. Bộ luật Hồng Đức - tên thường gọi của bộ Quốc triều hình luật thời Lê, ban hành năm 1483 dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) được xem là đỉnh cao của việc xây dựng pháp luật trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Hoạt động lập pháp nhằm duy trì trật tự xã hội và kỷ cương phép nước được xem là công việc hệ trọng nhất của các bậc vua chúa. Đi đôi với việc củng cố bộ máy nhà nước, vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc xây dựng thể chế pháp luật. Ông chủ trương dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội.

Đến đầu thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ tư tưởng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật4. Bản Hiến pháp năm 1946 do Người làm trưởng ban soạn thảo, thể hiện rất sâu sắc tư tưởng pháp quyền - thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”5; “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”6.

Kế thừa những tư tưởng về nền chính trị pháp quyền trong lịch sử dân tộc và tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và trải qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), nhận thức về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có bước phát triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đã từng bước được đổi mới, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của đất nước và thông lệ quốc tế.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”7. Định hướng chung là “nâng cao năng lực, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh bền vững”8. Theo định hướng đó, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra trong thời gian tới phải: “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính”9 là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị trong những năm tới.

Tư tưởng hòa bình, hữu nghị, hòa hợp vì sự phát triển, tiến bộ

Trải qua chiến tranh, xung đột, hòa bình và hợp tác hữu nghị đã trở thành khát vọng của toàn nhân loại, nhưng với một dân tộc luôn phải đối đầu với các cuộc chiến tranh giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc như Việt Nam thì hòa bình còn là đạo lý và phương châm xử thế.

Tư tưởng về một nền hòa bình, hữu nghị được thể hiện rất rõ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đề cao tinh thần hòa bình, hòa hiếu trong các cuộc đấu tranh, đều nhằm giữ vững độc lập, tự chủ, ngăn chặn họa xâm lăng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, xây dựng nền thái bình lâu bền cho muôn dân. Bởi vậy, nghệ thuật ngoại giao của nước ta được nghiên cứu, phát triển, vận dụng khá hiệu quả, trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt, đóng góp quan trọng vào bảo vệ, khẳng định nền độc lập, tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Tư tưởng hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị được phát triển đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh. Thiết tha yêu chuộng hòa bình, cố gắng giải quyết mọi xung đột bằng con đường đàm phán hòa bình, kể cả phải chấp nhận một sự nhân nhượng có nguyên tắc, nhưng cũng kiên quyết chống các cuộc chiến tranh xâm lược để bảo vệ hòa bình một cách thực sự; sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước trên tinh thần cùng tồn tại hòa bình là những nội dung cơ bản trong tư tưởng hòa bình, hợp tác hữu nghị để phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, trong bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta. Bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền của đất nước, ông cha ta đã luôn luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên những truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại Việt Nam: Đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa: "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy chí nhân mà thay cường bạo!"; "Dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; Mở nền muôn thủa thái bình!" ("Bình Ngô đại cáo" - Nguyễn Trãi). Dùng đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải luôn luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.

Những truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy càng được bồi đắp, phát huy và tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh, đã phát triển lên thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc”.

Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc phải “trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Trong giai đoạn hiện nay, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bởi vậy, trong đường lối đối ngoại, Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong “tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Các nhiệm vụ này quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước". Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XIII là bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.

Hơn lúc nào hết, đứng trước những thách thức của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế và để thực hiện được những mục tiêu mà Đảng ta đã xác định trong Đại hội XIII của Đảng, chúng ta cần phải quyết liệt “xốc lại” tinh thần, đảm bảo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong cả hệ thống chính trị nhằm củng cố, phát huy những giá trị văn hóa chính trị truyền thống của dân tộc trong Đảng.

Nếu như, tháng 11/1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, có giá trị như “Hội nghị Diên Hồng” về nghị lực và ý chí xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thời độc lập, tự chủ, hướng tới chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Và thực sự văn hóa chính trị là ngọn đuốc soi sáng chế độ mới ở nước ta. Thì, tháng 11/2021, Hội nghị Văn hóa toàn quốc là sự tái hiện “Hội nghị Diên Hồng” trên mặt trận văn hóa, bồi đắp thêm trí tuệ, nhiệt huyết và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức đồng lòng xây dựng văn hóa, con người mang bản sắc truyền thống yêu nước, thương nòi, khát vọng hòa bình, độc lập, tự lực, tự cường; bồi đắp cho văn hóa chính trị thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục thật sự là động lực tinh thần, sức mạnh nội sinh cho Đảng bất diệt và dân tộc trường tồn.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.84-85.

2. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.101.

3. Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2019, tr.80, 116-117.

4. Trong thư gửi Tổng thống Mỹ, ngày 18/6/1919, kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi trưởng đoàn các nước tham dự Hội nghị Véc-xây (Versailles), Người viết: “7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người chỉ rõ: “Bảy xin hiến pháp ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, tập 6, tr.515.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.499.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tập I, tr. 174.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.174-175.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 284.

Trần Thị Hồng Thúy

TS, Đại học Luật Hà Nội

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều