Quân đội giúp dân xóa đói, giảm nghèo, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược

(Mặt trận) - Quân đội ta từ nhân dân mà ra, là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, Quân đội ta luôn hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của “Đội quân chiến đấu, đội quân công tác”. Trong ký ức của nhân dân, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” là biểu trưng cho những gì tốt đẹp nhất của những người con ưu tú luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân; giúp dân xóa đói giảm nghèo, góp phần quan trọng vào tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; bảo vệ Tổ quốc.

 Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến và Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng tại buổi trao số tiền 54,5 tỷ đồng từ nguồn tiếp nhận ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 cho Bộ Quốc phòng

Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước giúp dân xóa đói, giảm nghèo

Quán triệt và thực hiện chủ trương của Ðảng, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 135/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 về việc giao cho Bộ Quốc phòng tham gia phát triển kinh tế, xây dựng các vùng kinh tế mới, giúp dân xoá đói, giảm nghèo cho đồng bào ở những vùng đất còn hoang hoá, các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, thực hiện Chương trình 135, 134 đã hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng hàng chục nghìn công trình điện, nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào nghèo, thôn bản nghèo, huyện nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo những năm qua đã được triển khai đồng bộ với nhiều giải pháp có hiệu quả, tạo tiền đề quan trọng để một bộ phận lớn hộ nghèo ở các huyện nghèo cải thiện đời sống, vươn lên thoát nghèo. Hàng triệu lượt hộ nghèo đã được vay vốn tín dụng ưu đãi và được hướng dẫn cách làm ăn. Hàng trăm nghìn người lao động nghèo được đào tạo nghề miễn phí và tạo việc làm. Hàng nghìn công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng tại các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo. Mở rộng đối tượng hưởng bảo hiểm y tế đối với hộ cận nghèo; điều chỉnh tăng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo; hàng chục triệu lượt người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, giúp người nghèo giảm đáng kể các chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau. Mở rộng đối tượng và tăng mức cho vay ưu đãi đối với học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ chính sách, hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Miễn thủy lợi phí và một số khoản đóng góp cho nông dân; hỗ trợ đối với các mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào dân tộc miền núi...

Ngày 19/3/2021, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 22/2021/NĐ-CP quy định về Quân đội tiếp tục xây dựng Khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Mục tiêu là tiếp tục giúp dân xóa đói, giảm nghèo bền vững; củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược để hình thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, tạo vành đai vững chắc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Các đơn vị quân đội tham gia phát triển kinh tế - quốc phòng có nhiệm vụ:

1) Xây dựng địa bàn vững mạnh về quốc phòng, an ninh; ổn định phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng thế trận phòng thủ trên các địa bàn chiến lược làm cơ sở vững chắc cho nhân dân, các lực lượng khác tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên tuyến biên giới đất liền, biển, vùng biển và hải đảo. 2) Phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu để nhân dân ổn định sản xuất, đảm bảo an sinh xã hội; tổ chức, bố trí sắp xếp các điểm dân cư, định canh, định cư trên địa bàn biên giới, các đảo, quần đảo xa bờ bảo đảm mục tiêu giảm nghèo bền vững và ổn định quốc phòng, an ninh. 3) Xây dựng các mô hình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và hỗ trợ phát triển sản xuất tạo yếu tố ban đầu cho phát triển kinh tế hàng hóa, dịch vụ; tổ chức dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm (dịch vụ hai đầu); chuyển giao công nghệ sản xuất cho nhân dân; tổ chức sản xuất khai thác hiệu quả đất đai đối với những địa bàn biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có vai trò quan trọng về quốc phòng, an ninh. Xây dựng cơ sở kinh tế ở những vùng biển, đảo khó khăn làm cầu nối giữa đất liền và đảo, quần đảo; tổ chức các hoạt động dịch vụ trên biển hỗ trợ ngư dân bám biển sản xuất để tăng cường hoạt động dân sự trên các vùng biển, đảo khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và tài phán trên biển. 4) Tuyên truyền, vận động nhân dân nắm vững, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phòng, chống các thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch và các hoạt động truyền đạo trái pháp luật; đưa phát thanh, truyền hình, văn hóa, y tế về cơ sở; tạo điều kiện cho con em đồng bào thiểu số được đến trường; chăm sóc y tế cho nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho địa phương; phục hồi bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trên địa bàn. 5) Phối hợp với các lực lượng trên địa bàn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; tham gia tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự - an toàn xã hội vùng biên giới, biển, đảo của Tổ quốc.

Theo đó, cả nước phấn đấu giai đoạn 2021-2025, bình quân mỗi năm giảm từ 1,5% - 1,7% tỷ lệ hộ nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm bình quân 3,5% trở lên (theo chuẩn nghèo do Chính phủ quy định. Đến năm 2025 giảm 40% - 50% các xã, bản thuộc diện đặc biệt khó khăn, giảm trên 50% thôn, bản đặc biệt khó khăn. Cùng với mục tiêu, chương trình và chính sách của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng, đông đảo các tầng lớp nhân dân ta đã tích cực tham gia, có rất nhiều sáng kiến, tổ chức rất nhiều hoạt động phong phú để hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn một cách kịp thời, cũng như đã góp phần xóa đói, giảm nghèo một cách cơ bản, lâu dài.

Những hoạt động thi đua chung sức, đồng lòng “Ngày vì người nghèo”, “Quỹ xóa đói, giảm nghèo”, “Quỹ tấm lòng vàng”, những cuộc vận động giúp đỡ đồng bào vùng thiên tai, bão lũ... đã trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút được sự tham gia tích cực, tự giác của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế. Các hoạt động và phong trào này, trong những năm qua, không chỉ là phương thức xã hội hóa, huy động được hàng trăm nghìn tỷ đồng từ các nguồn lực xã hội, cả trong và ngoài nước cho xóa đói, giảm nghèo, mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, khơi dậy và nuôi dưỡng tình cảm thương yêu đùm bọc lẫn nhau, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Kết quả, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đến năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo của cả nước chỉ còn 2,75%. “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở xã hội được quan tâm”1. Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới. Kết quả trên có ý nghĩa rất to lớn, khẳng định ý chí, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật, việc tổ chức thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho đồng bào nghèo vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra. Đảng ta chỉ rõ: “Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Chênh lệch giàu - nghèo còn lớn; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai”2. Công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự chặt chẽ, thiếu quyết liệt; việc xây dựng chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện chưa sát với tình hình thực tiễn, nhất là ở cấp cơ sở; chất lượng hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm của các cơ quan, đơn vị, địa phương và các tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế; công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về giảm nghèo bền vững hiệu quả còn thấp; một bộ phận cán bộ, đảng viên, người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước,…

Kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo

Trong điều kiện tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở nước ta, nhất là trên các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đang đặt ra những thách thức cho quá trình thực hiện chương trình xóa đói, nghèo bền vững. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững, cần tập trung thực hiện một số định hướng cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước và sự quan tâm của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác xóa đói, giảm nghèo. Đây vừa là giải pháp cơ bản vừa là định hướng cho công tác giúp dân xóa đói, giảm nghèo. Các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững; xác định giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Lãnh đạo các ngành, đoàn thể các cấp ở từng địa phương cần rà soát tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện công tác giảm nghèo ở địa phương; phối hợp thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới đồng bộ, quyết liệt; xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là việc làm thường xuyên của cả hệ thống chính trị.

Thứ hai, tiếp tục quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, nghị định, chương trình của Đảng và Chính phủ về chính sách xóa đói, giảm nghèo bền vững. Đây là giải pháp quan trọng nhằm thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Chính phủ; gắn với thực hiện hiệu quả các chính sách đặc thù ở từng địa phương về xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo. Đổi mới cách tiếp cận, tăng cường phối hợp, lồng ghép; ưu tiên nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực trợ giúp xã hội”3; đồng thời phát triển sản xuất theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, áp dụng công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh để nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Tập trung phát triển sản xuất, hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo.

Thứ ba, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn các tỉnh biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đây vừa là định hướng vừa là giải pháp tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng ở các huyện, xã bản đặc biệt khó khăn. Hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, dân sinh; tiếp tục cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách ưu đãi về giáo dục đối với các học sinh, sinh viên thuộc diện hộ nghèo; đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, chất lượng dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh để mọi người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế. Tạo điều kiện để người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của tỉnh được tiếp cận với các dịch vụ thông tin, hiểu về trách nhiệm và quyền lợi của mình, cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để chủ động lao động, sản xuất vươn lên thoát nghèo. Cùng với đó, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị thực hiện chính sách giảm nghèo ở địa phương cơ sở. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực triển khai các chủ trương, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ giảm nghèo. Kịp thời phát hiện và khắc phục những sai sót, khó khăn, vướng mắc trong công tác giảm nghèo, động viên, khuyến khích cán bộ làm việc có hiệu quả, yên tâm gắn bó với cơ sở.

Thứ tư, tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm nguồn lực, đồng thời huy động tối đa các nguồn lực xã hội tham gia công tác giảm nghèo bền vững. “Ưu tiên nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng tích hợp với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030; thúc đẩy việc huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho công tác giảm nghèo”4; tập trung phát triển sản xuất, giáo dục nghề nghiệp cho người nghèo; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn.

Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng và các bộ, ban, ngành có liên quan nhằm chỉ đạo, giải quyết kịp thời những vướng mắc mới nảy sinh. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng đối với các tổ chức, cá nhân có liện quan đến thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng thời quan tâm đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đời sống văn hoá, tinh thần cho bộ đội và nhân dân ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo. Các cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội cần tích cực phối hợp với các địa phương trong việc phát hiện, bồi dưỡng, gửi đi đào tạo và tuyển dụng cán bộ trẻ là con em đồng bào các dân tộc, hộ nghèo ở địa phương để sau này sẽ là những cán bộ quản lý, là lực lượng lao động nòng cốt cho công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào ở địa phương.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chung sức, đồng lòng giúp dân xóa đói, giảm nghèo; tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác giảm nghèo. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan điều phối về giảm nghèo các cấp theo hướng tập trung, thống nhất đầu mối quản lý; tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thực hiện công tác giúp dân xóa đói, giảm nghèo; có chính sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, nhiệt tình về công tác tại vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Tăng cường cung cấp thông tin, giúp người nghèo kết nối với thị trường lao động, thị trường hàng hóa... Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân giúp đỡ các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản nghèo; vận động các hộ khá giả giúp đỡ hộ nghèo; xây dựng, nhân rộng các mô hình văn hóa, sáng kiến hay về giúp dân xóa đói, giảm nghèo bền vững.

Lê Hữu Đức

Thượng tướng, Tiến sĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Chú thích:

1,2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, Tập I, tr.65-66, 211-212, 270- 271.

4. Chỉ thị 05CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư Trung ương về “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030”.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều