Thích ứng với “trạng thái bình thường mới” trong phòng, chống dịch COVID-19

“Trạng thái bình thường mới” là yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao khả năng thích ứng của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước trong bối cảnh mới, nhất là bối cảnh đại dịch COVID -19. Trạng thái này đòi hỏi mọi cá nhân, cộng đồng, tổ chức và giai tầng xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có tư duy mới, tầm nhìn mới, cách làm mới để đạt được những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến tại buổi lễ trao tặng 63 xe tải chuyên dụng của THACO vận chuyển vaccine và 63 xe chuyên dụng phục vụ tiêm chủng lưu động. 

HIỂU VỀ “TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI”

Từ đầu năm 2020, đại dịch COVID-19 xảy ra trên toàn cầu, tạo nên cuộc khủng hoảng đa chiều, tác động đến nhiều ngành nghề khác nhau, cuộc sống vật chất lẫn tinh thần của con người. “Trạng thái bình thường mới” được dùng để đề cập tới sự thay đổi về các hoạt động, quan hệ xã hội và hành vi con người sau đại dịch COVID-19. Dịch COVID-19 đã và đang làm thay đổi toàn diện cấu trúc xã hội mang tính lâu dài. “Trạng thái bình thường mới” hiểu đơn giản là những điều khác với những cái cũ. Có thể là những điểm mà trước đây được cho là bất bình thường thì sẽ trở nên bình thường. Hoặc cũng có thể là những điều mà trước đây chúng ta đang phấn đấu để thực hiện thì nay, trong điều kiện mới bắt buộc chúng ta phải thực hiện nó nhanh hơn, nhằm thích ứng với tình hình mới.

“Trạng thái bình thường mới” COVID-19 là trạng thái mà tại đó đất nước vừa tập trung chống dịch, vừa khôi phục và phát triển lại nền kinh tế như lúc ban đầu. Có 4 điểm đặc trưng để nhận diện “trạng thái bình thường mới”, đó là: 1) Khi làm bất kỳ việc gì, phải vừa đảm bảo tính hiệu quả vừa đảm bảo mục tiêu; 2) Dịch bệnh là vấn đề diễn ra trên quy mô toàn cầu, tình huống bất thường không ai đoán trước được, tác động đến mọi giai tầng xã hội, không phụ thuộc vào trình độ phát triển hay thể chế chính trị; 3) Tác động của dịch bệnh đòi hỏi mỗi con người, tổ chức và toàn bộ hệ thống xã hội phải năng động và có khả năng chống chịu và thích ứng với bối cảnh mới; 4) Đặt ra nhiều vấn đề phải định hình lại, phải đối mặt với nhiều rủi ro xã hội: dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu...

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Đại dịch COVID-19 đã và đang thay đổi cách sống, làm việc và kết nối của con người trong xã hội. “Trạng thái bình thường mới” do đại dịch COVID-19 đặt ra những vấn đề mới cho quản lý trên bình diện quốc gia và toàn cầu, đòi hỏi phải có những điều chỉnh chính sách thích hợp và khôn khéo. Chính sách ứng phó trong “trạng thái bình thường mới” do dịch COVID-19, lấy phục hồi và phát triển kinh tế là trung tâm nhưng để phát triển bền vững thì con người và môi trường mới là cái đích và nền tảng mà Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định.

Trong gần 2 năm qua, Việt Nam phòng, chống đại dịch COVID-19 trong điều kiện bị động; hầu như toàn bộ trang thiết bị, máy móc, sinh phẩm, vaccine và thuốc chữa bệnh đều phải nhập khẩu; nền kinh tế còn khó khăn; các biện pháp công nghệ cũng chưa bảo đảm; việc phân cấp, phân quyền còn không ít bất cập. Tuy nhiên, Việt Nam đang xây dựng hướng dẫn thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh COVID-19. Với việc Chính phủ đề ra 6 nguyên tắc phải quán triệt sâu rộng trong toàn bộ hệ thống xã hội: Y tế là trụ cột, là trung tâm; kinh tế là cơ sở, là nền tảng; dữ liệu khoa học, công nghệ là then chốt; ổn định chính trị-xã hội là trọng yếu và thường xuyên; vaccine, thuốc chữa bệnh và ý thức người dân là điều kiện tiên quyết; an toàn để sản xuất, sản xuất phải an toàn. Phải kết hợp hài hòa giữa tổng thể và cụ thể, giữa phổ biến và đặc thù, chính sách chung nhưng tổ chức thực hiện phải linh hoạt, phù hợp đặc thù từng nơi, từng thời điểm.

Chính phủ đang khẩn trương xây dựng hướng dẫn tạm thời để thực hiện chủ trương chuyển trạng thái từ “không COVID” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch COVID-19”. Tuy nhiên, do chính sách có phạm vi rộng lớn, song lại khoanh hẹp đến tận phường, xã, thị trấn, đến tổ dân phố, ấp, bản, thôn và tác động tới toàn bộ các đối tượng là nhân dân, doanh nghiệp… nên phải có bước đi thận trọng, chắc chắn, rõ đến đâu làm đến đó, vừa làm vừa bổ sung, sơ kết, đúc rút kinh nghiệm rồi hoàn thiện dần. Để chiến thắng đại dịch COVID chúng ta cần phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa điều chỉnh cho kịp thời, phù hợp. Để làm được điều này, cần phải tổ chức thu thập dữ liệu cho đầy đủ, khách quan. Đồng thời, cần tiếp cận nhanh chóng thông tin, dữ liệu và tri thức của thế giới trong phòng, chống dịch COVID-19.

Các giải pháp trong phòng, chống đại dịch COVID-19 trong “trạng thái bình thường mới” cần được xây dựng và thực hiện một cách tổng thể, đồng bộ từ chính hệ thống các thiết chế xã hội có liên quan, đó là: thiết chế y tế, thiết chế pháp luật, thiết chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế đạo đức, thiết chế văn hóa, thiết chế khoa học-công nghệ, thiết chế truyền thông, thiết chế dư luận xã hội…

GIẢI PHÁP VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Để thực hiện giải pháp này, phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và cấp uỷ các cấp trong công tác phòng, chống COVID-19.Đặc biệt, phải khắc phục tình trạng chậm chạp trong tổ chức thực hiện, điều này đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo đòi hỏi phải tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, cấp uỷ các cấp. Đồng thời, đòi hỏi Nhà nước phải thiết kế và vận hành mô hình “sống chung an toàn với COVID” ở các loại hình hoạt động và quan hệ xã hội khác nhau.Nhà nước cần giao nhiều hơn cho thị trường/doanh nghiệp và xã hội trong việc đảm nhận công việc phòng, chống đại dịch. Trên cơ sở đó, Nhà nước sẽ có điều kiện tốt hơn để tập trung để giải quyết những vấn đề trọng yếu phù hợp với vai trò của Nhà nước trong bối cảnh tình huống bất thường.

Ở phạm vi vĩ mô, vấn đề “trạng thái bình thường mới” đòi hỏi hoạt động lãnh đạo, quản lý cần phải có tư duy, tầm nhìn, chính sách hành động mới, bao gồm: 1) Phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường; 2) Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; 3) Sự thay đổi về nhận thức và thực tiễn về vai trò và mối quan hệ “Nhà nước - Thị trường - Xã hội”; 4) Quá trình tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững; 5) Hình thành và phát triển các giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc; 6) Thực hiện “mục tiêu kép” đẩy lùi dịch bệnh và phát triển kinh tế phải đáp ứng nguyên tắc “cân bằng đông”; phải có sự ưu tiên trong từng bối cảnh cụ thể.

Các chính sách của Nhà nước và các địa phương cần cân đối giữa phòng chống dịch, bảo toàn nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội; phải quan tâm đặc biệt đến vấn đề lao động và phục hồi kinh tế.Cần phải duy lý tối đa, tiếp cận đa-liên-xuyên ngành khi đề ra các giải pháp và tổ chức thực hiện phòng, chống dịch bệnh trên thực tế. Các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 của không được vượt quá mức cần thiết. Những giải pháp phòng chống dịch làm đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, tình trạng lao động vừa thiếu lại vừa thừa, nguy cơ tạo ra tình cảnh thất nghiệp, thiếu ăn đối với người dân phải sớm được sửa đổi.

Các cơ quan chức năng cần tiến hành tổng kết phân tích, so sánh trên cơ sở tiếp cận đa-liên-xuyên ngành khoa học về các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 ở các địa phương. Trên cơ sở đó, tìm ra cách làm hay, cách quản lý thống nhất, cách đánh giá thống nhất về nguy cơ dịch bệnh để áp dụng các biện pháp an sinh xã hội, chăm sóc F0 và theo dõi F1, F2… ngay tại cộng đồng với đầy đủ thuốc men, phác đồ điều trị và các điều kiện đảm bảo an sinh, an toàn.

Đặc biệt, cần sớm ban hành quy trình: nghe dân, hỏi dân để làm cơ sở ra những quyết định đúng pháp luật, đúng với nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp, để thực sự đúng với tinh thần chỉ đạo là “dân biết, dân hiểu, dân tin, dân theo, dân làm”.

Các Ban chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 ở các cấp cần tính toán kỹ lưỡng cần nhấn mạnh “tính chất động” để áp dụng các biện pháp y tế và hành chính phù hợp theo Chỉ thị 15, 16, 19 hay “trạng thái bình thường mới”. Lộ trình trở lại trạng thái “trạng thái bình thường mới” của các địa phương với những bước thực hiện được cần lựa chọn phù hợp, kịp thời và rõ ràng để mọi cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng và tổ chức cùng thống nhất trong nhận thức và hành động.

Cần tư duy và nhìn nhận lại mô hình phát triển để tạo nên mô hình có sự cân bằng và liên kết tốt hơn giữa các động lực của tăng trưởng, các khu vực kinh tế. Phát triển nền kinh tế theo định hướng có khả năng thích nghi cao, có sức chống chịu tốt trong một thế giới diễn biến phức tạp, khó lường sẽ cần thiết hơn. Cần thay đổi chính sách quốc gia trong định hướng phát triển các ngành kinh tế, cách thức sản xuất, tiêu dùng, mô hình kinh doanh mới, số hóa. Cần xây dựng nền kinh tế có sức chống chịu; hướng tới hợp tác song phương, hợp tác theo nhóm nhiều hơn, chặt chẽ hơn. Từng bước định hướng đến một nền kinh tế mới, mà trong đó được định hình bởi những thói quen và quy định mới như giãn cách xã hội, cẩn trọng về vệ sinh, hạn chế đi lại, hạn chế tiếp xúc, tức “nền kinh tế ít chạm”. Điều này đòi hỏi phải có tầm nhìn, chiến lược nhằm phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước có tính gắn kết, có sức cạnh tranh và thực sự là những trụ cột cho nền kinh tế trong tương lai.

 

Đẩy nhanh giải ngân đầu tư công theo mục tiêu Thủ tướng Chính phủ đặt ra, gắn trách nhiệm giải ngân đầu tư công cho người đứng đầu; các bộ, ban, ngành, địa phương cần đồng hành, phối hợp chặt chẽ nhằm tháo gỡ nút thắt để có thể nhanh chóng giải ngân đầu tư công, vừa kích thích tổng cầu trong ngắn hạn, vừa tạo ra năng lực cho nền kinh tế nhằm tăng trưởng trong dài hạn. Thực tế, hàng loạt biện pháp quyết liệt để hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy đầu tư công, kích cầu tiêu dùng, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư... đã được triển khai. 

Các cơ quan chức năng về Quy hoạch và xây dựng trong xây dựng chính sách phát triển không gian sống của các cộng đồng dân cư (thành thị và nông thôn) cần phải tính đến nhiều hơn yếu tố phòng, chống dịch bệnh. Ví dụ, không tập trung quá lớn, có đồng bộ các dịch vụ thiết yếu, để sao cho vừa đảm bảo đầy đủ các điều kiện sống, đồng thời trong tình huống bất thường xảy ra dịch bệnh có thể thực hiện nhanh, có hiệu quả việc truy vết, cách ly ở quy mô hợp lý, không làm ảnh hưởng quá lớn đến nhiều hoạt động sống của xã hội.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGÀNH Y TẾ

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ hiện nay là sớm đưa cuộc sống trở lại bình thường theo phương án thích ứng an toàn với dịch bệnh. Theo đó, ngành Y tế có trách nhiệm tham mưu và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ: Tăng cường nguồn lực vaccine, thuốc chữa bệnh COVID-19 (nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy tiến độ nghiên cứu, sản xuất vaccine, thuốc trong nước); tiêm vaccine miễn phí cho nhân dân; Đẩy mạnh tiến độ tiêm cho những người chưa tiêm và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho những người đã được tiêm; Từng bước mở cửa an toàn trường học; Tăng cường xét nghiệm và vận động nhân dân tuân thủ các biện pháp phòng dịch.

Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là trong việc ứng phó kịp thời, chính xác, sự đồng thuận và đủ mạnh; cấu trúc của hệ thống y tế có những bất cập. Tăng cường tốc độ nghiên cứu, sản xuất trang thiết bị vật tư y tế nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu rất cao trong việc ứng phó với dịch COVID-19 luôn có diễn biến phức tạp. Tăng cường thực hiện khám chữa bệnh từ xa, nhất là cho nhóm khách hàng mắc bệnh mãn tính. Thúc đẩy việc ứng dụng trí tuệ nhân tạotrong y tế, nhất là trong hoạt động nghiên cứu sản xuất vaccine và thuốc điều trị COVID-19. Tăng cường bảo vệ và phát triển nguồnnhân lực trong lĩnh vực y tế. Việc bảo vệ nhân viên y tế là một trong ưu tiên hàng đầu trong trạng thái “trạng thái bình thường mới” của ngành y tế.

Chiến lược tiêm chủng cần “thần tốc hơn nữa”, nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu được tiêm vaccine của các giai tầng xã hội. Các chuyên gia y tế cho rằng, quy trình tiêm vaccine hiện nay có thể được rút ngắn để tăng công suất mà vẫn đảm bảo an toàn. Cần dựa vào dữ liệu tiêm chủng thời gian qua để cải tiến quy trình tiêm hiệu quả và nhanh chóng hơn.

Phương án “thẻ xanh COVID-19” cần được thúc đẩy nhanh chóng, trong đó lấy công nghệ và dữ liệu làm nền tảng. Cần thúc đẩy việc triển khai có hiệu quả gom tất cả ứng dụng trước đây vào chung một ứng dụng có thể tích hợp chức năng, giúp người dân: 1) Khai báo y tế tại các điểm đến nơi công cộng; 2) Khai báo y tế khi nhiễm bệnh/nghi nhiễm để kích hoạt việc truy vết, thông báo cho cơ quan y tế và các F1; 3) Khai báo khi qua chốt kiểm dịch; 4) Cập nhật vấn đề tiêm chủng hoặc chữa trị… Đây là một ứng dụng “gối đầu giường”, có giá trị trong mọi hoạt động đời sống của người dân khi “trạng thái bình thường mới”. Giúp cơ quan chức năng có thể theo dõi dịch tễ, kích hoạt hệ thống truy vết, khoanh vùng, cảnh báo khi xuất hiện các ca dịch trong cộng đồng.

TRUYỀN THÔNG TRONG “TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG MỚI”

Để thích ứng với “trạng thái bình thường mới”, cần tập trung tuyên truyền về phương thức sống chung với COVID-19. Sống chung với COVID-19 hoàn toàn không có nghĩa là sống chung với đại dịch. Sống chung với COVID-19 chỉ có nghĩa là giảm thiểu tác hại của dịch bệnh và dần biến nó trở thành loại cúm mùa thông thường. Để sống chung với COVID-19, thì cũng cần phải trang bị cho người dân sự hiểu biết chính xác, khách quan và khoa học về COVID-19 và cách thức phòng chống nó. Chính sự hiểu biết sẽ làm gia tăng sức đề kháng bệnh dịch của toàn bộ hệ thống xã hội.

Cần tập trung thông tin một cách toàn diện và cân bằng về các nội dung như sau: sự nỗ lực, quyết tâm của các địa phương đang thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội; công tác phòng, chống dịch đang đi đúng hướng, phù hợp với diễn biến tình hình và điều kiện thực tế của nước ta; các giải pháp đồng bộ về giãn cách xã hội, điều trị, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh trật tự được người dân đồng tình; lấy xã, phường, thị trấn làm “pháo đài”, đảm bảo mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế từ sớm, từ xa ngay tại xã, phường, thị trấn, công tác điều trị đã có những kết quả tích cực trong việc hạn chế các trường hợp tử vong; các lực lượng tuyến đầu, các tình nguyện viên; sự hưởng ứng, đồng tình, vào cuộc, chia sẻ, thông cảm của nhân dân để thực hiện mục tiêu chống dịch và phát triển kinh tế, xã hội; từng bước khôi phục và đẩy mạnh sản xuất tại các địa phương kết thúc giãn cách xã hội, đảm bảo an toàn và thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống dịch tại khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh; về chấp hành các quy định về phòng, chống dịch, các quy định về giãn cách, cách ly, “ai ở đâu ở đó”, không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác với diễn biến của dịch bệnh và sự nguy hiểm của dịch; hướng dẫn thêm các kỹ năng cụ thể bảo vệ bản thân trước dịch bệnh; thiết lập kịch bản thích ứng an toàn: Giao thông an toàn, đi lại an toàn, sản xuất an toàn, dịch vụ an toàn; về ứng dụng công nghệ phục vụ phòng chống dịch, kiểm soát dịch, kiểm soát cuộc sống trong khi chuyển trạng thái và phục vụ điều hành kinh tế... Đặc biệt, cần kịp thời và hiệu quả hơn trong việc phản bác các tin giả, tin sai sự thật trong phòng, chống dịch COVID-19.

Tăng cường truyền thông điệp phù hợp với các nhóm xã hội khác nhau về việc cầu thị lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, chú trọng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Tập trung vào việc tuyên truyền kế hoạch phục hồi kinh tế “thích ứng an toàn” với dịch bệnh trên tinh thần sản xuất phải an toàn, an toàn để sản xuất. Góp phần thay đổi thói quen, nâng cao ý thức phòng dịch để tiếp tục sống đối với người dân, doanh nghiệp, cụ thể: Mỗi cá nhân, nhóm xã hội và cộng đồng phải tự điều chỉnh và giảm bớt nhiều nhu cầu  hành vi và quan hệ xã hội có “nguy cơ lây nhiễm cao”…

Tăng cường việc tuyên truyền phản ánh thực tế điều hành, chỉ đạo chống dịch tại các cấp chính quyền địa phương trên nhiều nền tảng truyền thông khác nhau. Trong đó, chú trọng việc kiểm tra qua hệ thống trực tuyến ở những nơi đã triển khai xuống tận cấp phường, xã; ủng hộ phương châm “giao đầu kiểm tra đáy” để tăng cường hiệu quả giám sát, tổ chức thực hiện ở cấp cơ sở.  

Thông điệp “trạng thái bình thường mới” cần được lan tỏa rộng khắp trên tất cả các loại hình truyền thông khác nhau: truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội và truyền thông trực tiếp theo phương châm thống nhất, minh bạch, dựa trên bằng chứng, dễ hiểu dễ thực hiện, phù hợp với từng nhóm đối tượng khác nhau. 

BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI

Trong “trạng thái bình thường mới”, chưa thể khắc phục ngay hậu quả do dịch COVID-19 gây ra. Do đó, bảo đảm an sinh xã hội cần phải được đặc biệt quan tâm, đảm bảo không nhóm xã hội nào không tiếp cận được các chương trình hỗ trợ an sinh xã hội. Bảo đảm an sinh xã hội là khâu trọng yếu nhất, để đảm bảo nền tảng cho sự thành công trong phòng, chống dịch COVID-19.

Lao động tự do, hộ kinh doanh cá thể, người nhập cư, người nghèo, người dân tộc thiểu số… chịu tác động từ dịch COVID-19 nặng nề hơn so với các nhóm đối tượng khác. Vì thế, các gói hỗ trợ của Chính phủ trên cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn để nguồn lực hỗ trợ tìm đến được đúng các địa chỉ chịu tổn thương nhất, nhanh nhất. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện phương châm xã hội hóa, huy động các nguồn lực của xã hội thực hiện an sinh xã hội trên cơ sở minh bạch, chuyên nghiệp có sự giám sát quản lý của các cơ quan chức năng.

Cần tập trung thực hiện tốt an sinh xã hội theo hướng phù hợp, kịp thời hơn với nhu cầu điều kiện của người công nhân ở các khu công nghiệp, thành phố lớn. Đó là cơ sở tạo nên sự yên tâm trong nghề nghiệp và cuộc sống của người công nhân; không tạo ra các làn sóng di cư thành thị - nông thôn bất thường, nhằm đảm bảo không bị đứt gãy thị trường lao động trong “trạng thái bình thường mới”.

 Ngày 3/10/2021, Bộ Y tế công bố 28.859 ca mắc COVID-19 được điều trị khỏi, nâng tổng số bệnh nhân được điều trị khỏi lên 693.797, chiếm 85,80% tổng số ca mắc.

ĐẨY MẠNH QUÁ TRÌNH SỐ HÓA TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Trong “trạng thái bình thường mới”, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và quá trình số trong mọi mặt của đời sống xã hội.

Cụ thể, đẩy mạnh giáo dục trực tuyến gắn với nâng cao trình độ công nghệ cho các giai tầng xã hội. Nâng cao kỹ năng, tri thức công nghệ cho mọi người dân là một đòi hỏi cấp thiết trong hoạt động giáo dục, đào tạo của đất nước. Nâng cao kỹ năng số cho các giai tầng xã hội với những mức độ phù hợp với nhu cầu, điều kiện và năng lực khác nhau. Đồng thời, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng năng lực đổi mới sáng tạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đẩy mạnh tiếp cận thông tin, chất lượng thông tin và an ninh thông tin.

Quá trình “số hóa”, “chuyển đổi số” đã diễn ra trước khi có đại dịch COVID-19 dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, đại dịch đã đẩy nhanh quá trình “số hóa” được đẩy mạnh và lan rộng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. “Số hóa” là xu thế khách quan, song vấn đề đặt ra là tính hợp lý và hiệu quả về các mặt của quá trình “số hóa” sẽ thế nào với trạng thái “trạng thái bình thường mới”. Để phát huy vai trò của quá trình “số hòa” cần phải có những nghiên cứu sâu rộng, tổng hợp về tác động tích cực, tiêu cực, những giới hạn đặt ra về: kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội, đạo đức, an ninh và môi trường sinh thái trước mắt, lâu dài đối với mỗi giai tầng xã hội và toàn bộ hệ thống xã hội.     

NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ THÍCH ỨNG, THÍCH NGHI CỦA NGƯỜI DÂN

Thực tiễn cho thấy,ngoài sự vào cuộc quyết liệt của các cấp chính quyền, ngành y tế trong việc truy vết, cách ly, xét nghiệm, điều trị, thì sự đồng lòng ủng hộ của người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 trong cộng đồng là điều kiện quan trọng hàng đầu để kịp thời khống chế dịch bệnh. Trong “trạng thái bình thường mới”, một số hoạt động đang dần trở lại bình thường, nhưng đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục đòi hỏi các giải pháp kiểm soát chặt chẽ. Trong một vài thời điểm, có thể cần có những hoạt động giãn cách xã hội, thậm chí phong toả từng bộ phận để chống dịch COVID-19.

Mỗi người dân cần tự ý thức, hết sức cân nhắc để tự hạn chế và kiểm soát nhu cầu  nhu cầu đi lại, nhu cầu giao tiếp, tụ tập nơi đông người… của bản thân. Đồng thời, tăng thời gian làm việc tại nhà, nhận hàng hóa tại nhà; cân bằng nhu cầu sống và làm việc trong một không gian hạn chế.

Khi thực hiện “trạng thái bình thường mới”, người dân cần phải tuân thủ nguyên tắc 5K; sử dụng mã khai báo QR tại các chốt kiểm soát và cài đặt các ứng dụng về COVID-19. Khi có thông báo tiêm vaccine trên địa bàn, người dân cần đăng ký và chủ động tiêm chủng. Nếu người dân có các triệu chứng về bệnh COVID-19, phải liên hệ với y tế tại địa phương ngay lập tức, không được tự ý di chuyển đến bệnh viện.Nâng lực cao tự chăm sóc khi không may bị nhiễm bệnh. Khi đã được tiêm vaccine, người dân nếu nhiễm bệnh phải khai báo y tế; tự cách ly, chăm sóc, điều trị tại nhà theo hướng dẫn của ngành Y tế.

Mỗi người dân cần tự tạo thói quen với “trạng thái bình thường mới”. Ví dụ, việc hạn chế người vào thăm động viên bệnh nhân trong bệnh viện là rất cần thiết trên nhiều khía cạnh về đảm bảo trên các khía cạnh y tế, vệ sinh dịch tễ, văn hóa và quan hệ xã hội. Tại những nơi tập trung đông người tiếp xúc gần, có nguy cơ cao lây nhiễm COVID-19, thay vì thường xuyên diễn ra trong không gian khép kín và đông đúc như trước đây, các hoạt động này cần hướng đến xu hướng được tổ chức trong không gian mở, ngoài trời nhằm thích ứng “trạng thái bình thường mới”. 

ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH

Để thích ứng với “trạng thái bình thường mới”, mỗi doanh nghiệp tùy vào quy mô hoạt động, cần thành lập một hoặc nhiều tổ tự quản về phòng chống dịch để ứng phó với những kịch bản có thể xảy ra. Tổ tự quản giúp mọi người giám sát, hỗ trợ, nhắc nhở nhau trong sinh hoạt, làm việc để vừa đảm bảo hiệu quả công việc vừa đảm bảo an toàn phòng chống dịch, nhất là khi trong nội bộ xuất hiện ca nhiễm hoặc nghi nhiễm. Các doanh nghiệp cần thúc đẩy thanh toán bằng điện tử, giảm thiểu tiền mặt; đẩy mạnh mô hình thương mại điện tử, bán mang về... Các doanh nghiệp phải đảm bảo người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải đảm bảo các quy định về 5K + vaccine.

Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa thiết yếu, lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thương mại - dịch vụ, sản xuất hàng hóa và các cảng là những nhóm doanh nghiệp cần sớm thích nghi với môi trường làm việc có dịch COVID-19 hoạt động lâu dài và bền vững. Doanh nghiệp cần hướng đến năng lực hấp thụ tốt các chính sách trong “trạng thái bình thường mới”: miễn thuế, cho vay vốn, gia hạn nợ, kết nối hệ thống doanh nghiệp cùng ngành, xúc tiến thương mại, giảm giá thuê mặt bằng, các gói tài chính kích cầu hay các chương trình hỗ trợ xây dựng hệ thống phòng chống dịch COVID-19.

Những người tham gia hoạt động kinh doanh, gồm cả chủ hộ kinh doanh và người lao động đều phải xét nghiệm khi làm việc và được tiêm vaccine đầy đủ. Bên cạnh đó, thường xuyên xét nghiệm theo quy định của ngành Y tế và không tiếp tục làm việc khi có biểu hiện bệnh COVID-19. Tự giác chấp hành việc bố trí, sắp xếp và tổ chức không gian, hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền. Tích cực và trong điều kiện có thể đẩy mạnh các hình thức mua online - giao tận nhà hoặc bán mang về; thanh toán điện tử, chuyển khoản bằng nhiều hình thức khác nhau; các nhóm hộ kinh doanh cần chủ động lập ra các tổ tự quản trong phòng, chống COVID-19.

“Trạng thái bình thường mới” đã, đang và sẽ tạo ra cả cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế, hệ thống xã hội phải có những cách tiếp cận mới, những cách thức và biện pháp mới hoạch định, chỉ đạo, điều hành và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội mang tính hệ thống, đồng bộ.

Tiếp cận đa-liên-xuyên ngành khoa học nhằm đảm bảo để ban hành và thực hiện hệ thống chính sách phù hợp với “trạng thái bình thường mới” trong phòng, chống đại dịch COVID-19 nói riêng và các tình huống bất thường có thể xảy ra trong quá trình phát triển xã hội đang đặt ra ngày càng cấp thiết hơn bao giờ/.

Theo TS. Đỗ Văn Quân/Tạp chí Tuyên giáo

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều