Tiếp tục nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Đảng, Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, hàng loạt chủ trương, chính sách lớn được ban hành nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tạo nên những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt đời sống xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm gian hàng trưng bày nông sản sạch và hàng thủ công mỹ nghệ của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên_Nguồn: baochinhphu.vn 
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với số dân là 14.119.256 người (theo số liệu thống kê năm 2019), chiếm 14,67% dân số cả nước, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố. Địa bàn cư trú của đồng bào các DTTS chủ yếu ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung; chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên của cả nước; là những vùng có vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái, giàu tiềm năng và lợi thế về kinh tế nông - lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch sinh thái, thương mại biên giới…

Tuy nhiên, ở những vùng có đông đồng bào các DTTS sinh sống thường có địa hình phức tạp, hiểm trở, chia cắt, kết cấu hạ tầng kém phát triển, giao thông đi lại khó khăn, chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, thường xuyên bị thiên tai, gây hậu quả nghiêm trọng (hạn hán, bão, lũ, sạt lở đất, lốc xoáy, mưa đá, rét đậm, xâm nhập mặn…). Vì vậy, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS còn có khoảng cách khá xa so với mặt bằng chung cả nước, tỷ lệ hộ nghèo là người DTTS chiếm 52% tổng số hộ nghèo trên cả nước.

Những kết quả đạt được

Trong thời kỳ kháng chiến, vùng đồng bào DTTS và miền núi luôn là căn cứ địa hậu phương lớn để tiến hành đấu tranh cách mạng, góp phần lập nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, nhiều chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi đã được ban hành. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta”(1). Đại hội VIII của Đảng khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc”(2). Từ Đại hội IX đến Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta, vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc...

Hội nghị Trung ương 7 khóa IX của Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác dân tộc”, trong đó nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Đồng thời, Bộ Chính trị ban hành nhiều kết luận để chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi(3). Trong những năm gần đây, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, kết luận để đôn đốc, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Những chủ trương, đường lối về công tác dân tộc, chính sách dân tộc được Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra là cơ sở để Quốc hội thể chế hóa thành các quy định trong Hiến pháp, bộ luật, luật, nhằm xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, bảo đảm các quyền cũng như định hướng chính sách phát triển cho vùng đồng bào DTTS và miền núi. Chỉ tính riêng từ 2010 đến nay, Quốc hội ban hành 42 luật với 96 điều liên quan đến vùng đồng bào DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, trên các lĩnh vực xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế, quốc phòng - an ninh,… Đây là cơ sở để Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa thành hệ thống các chương trình, chính sách dân tộc.

Sản xuất sản phẩm gốm truyền thống của đồng bào Chăm ở Bình Dương_Ảnh: Tư liệu
Hiện nay, có 118 văn bản, trong đó có 54 đề án, chính sách trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi; trong đó có 2 văn bản quan trọng là Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011, của Chính phủ, “Về công tác dân tộc”, là văn bản có tính chất pháp lý cao nhất về lĩnh vực công tác dân tộc và Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày 12-3-2013, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020”, nhằm cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành kế hoạch dài hạn đến năm 2020 với những nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể và là cơ sở xây dựng, ban hành hệ thống chính sách dân tộc giai đoạn 2013 - 2020. Tính từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 41 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, trong đó có 15 đề án, chính sách trực tiếp. Chính sách dân tộc đã tiếp cận đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung các chính sách tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giảm nghèo (2 chương trình và 6 chính sách); phát triển sản xuất trong nông - lâm nghiệp, thủy sản (9 chính sách); phát triển giáo dục - đào tạo (5 chính sách); phát triển văn hóa (4 chính sách)… Trong đó, có những chính sách cụ thể như: Chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, phát triển sản xuất và ổn định đời sống cho người DTTS nghèo, hộ nghèo vùng đặc biệt khó khăn, ổn định cuộc sống cho người DTTS di cư tự phát (Quyết định số 2085/QĐ-TTg, ngày 31-10-2016 và Quyết định số 162/QĐ-TTg, ngày 25-1-2016); chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho các DTTS rất ít người (Quyết định số 2086/QĐ-TTg, ngày 31-10-2016); chính sách phát triển nguồn nhân lực các DTTS, người có uy tín trong đồng bào các DTTS (Nghị quyết số 52/NQ-CP, ngày 15-6-2016; Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-2016; Quyết định số 771/QĐ-TTg, ngày 26-6-2018; Quyết định số 2561/QĐ-TTg, ngày 31-12-2016 và Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg, ngày 6-3-2018); tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật vùng đồng bào DTTS và miền núi (Quyết định số 59/QĐ-TTg, ngày 16-1-2017; Quyết định số 45/QĐ-TTg, ngày 9-1-2019; Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngày 8-8-2016; Quyết định số 1163/QĐ-TTg, ngày 8-8-2017 và Quyết định số 1860/QĐ-TTg, ngày 23-11-2017)…

Thời gian qua, mặc dù nguồn ngân sách nhà nước còn khó khăn, nhưng Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, với tổng kinh phí: giai đoạn 2003 - 2008 là khoảng 250.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 là 690.000 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng. Nguồn lực đầu tư đó được tập trung vào xây dựng hàng vạn công trình kết cấu hạ tầng (đường giao thông, công trình thủy lợi, hệ thống điện, công trình nước sạch, trường học, lớp học, trạm y tế, nhà văn hóa, trung tâm cụm xã...); hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho DTTS rất ít người; hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất... cho hàng trăm nghìn hộ đồng bào các DTTS. Nhờ đó, vùng đồng bào DTTS và miền núi có bước chuyển biến căn bản, góp phần cùng cả nước giải quyết cơ bản vấn đề đói, nghèo (tỷ lệ hộ nghèo giảm 3-4%/năm); kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được cải thiện, an sinh xã hội được bảo đảm. Cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; dần hình thành các vùng sản xuất nông - lâm nghiệp hàng hóa: cà phê, chè, cao su, tiêu, cây dược liệu, cây lấy gỗ và sản phẩm ngoài gỗ… Kết cấu hạ tầng vùng đồng bào DTTS và miền núi từng bước được hoàn thiện; các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa ngày càng phát triển; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội từng vùng, từng khu vực. Hiện nay, có 94,8% xã có đường ô-tô đến trung tâm xã; trên 98% hộ DTTS được sử dụng điện lưới quốc gia, 100% xã có trường, lớp mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,3% xã có trạm y tế; trên 90% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình.

Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển_Nguồn: Tỉnh đoàn Quảng Ninh 
Những hạn chế, yếu kém

Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng qua gần 35 năm đổi mới, nhưng vùng đồng bào DTTS và miền núi hiện vẫn là vùng khó khăn nhất trong cả nước. Hiện còn 1.957 xã đặc biệt khó khăn (khu vực III) và 20.139 thôn, bản ngoài xã khu vực III thuộc diện đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trên 45%. Kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao, một bộ phận người DTTS vẫn còn thiếu đói, nhất là vào thời điểm giáp hạt. Chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS và miền núi chưa cao, có tới 21% số người từ 15 tuổi trở lên không đọc thông, viết thạo tiếng Việt; số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 89,5%, trong đó số người DTTS chưa qua đào tạo chiếm 94,2%. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của vùng đồng bào DTTS và miền núi. Công tác chăm sóc sức khỏe vùng đồng bào DTTS và miền núi còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ y tế thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là cán bộ y tế là người DTTS; trang thiết bị y tế thiếu và lạc hậu; phần lớn người nghèo không tiếp cận được dịch vụ y tế có chất lượng tốt. Tình trạng du canh, du cư, di cư tự do, chặt phá rừng, khiếu kiện tranh chấp đất đai, hoạt động tôn giáo trái pháp luật có nơi, có lúc diễn biến phức tạp, tạo ra một số vụ việc nổi cộm ở các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ.... Văn hóa truyền thống tốt đẹp của một số dân tộc đang bị mai một, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu kém, đội ngũ cán bộ đạt chuẩn còn rất thấp, một số cán bộ là người DTTS chưa được đào tạo. Tỷ lệ cán bộ, công chức là người DTTS trong chính quyền các cấp còn thấp; nhiệm kỳ 2016 - 2020 chỉ có 6,94% số cán bộ, công chức là người DTTS từ cấp huyện trở lên.

Sở dĩ còn những hạn chế, yếu kém nêu trên là do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

Thứ nhất, hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi chưa đồng bộ; cơ chế thực thi chính sách còn thiếu đổi mới mang tính đột phá; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực thi chính sách chưa chặt chẽ, hiệu quả. Một số cán bộ, công chức, viên chức chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của công tác dân tộc, chưa thật sự quan tâm đến vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Thứ hai, đa số đồng bào các DTTS sinh sống ở những địa phương nghèo, chủ yếu nhận hỗ trợ từ ngân sách từ Trung ương, nên khó có thể lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện chính sách dân tộc, trong khi ngân sách trung ương chỉ bố trí từ 40% đến 60% số vốn để thực hiện, do vậy, nhiều chính sách thiếu nguồn lực thực hiện, không đạt được mục tiêu đã đề ra. Phân định vùng đồng bào DTTS và miền núi theo trình độ phát triển còn bất cập, định mức đầu tư còn thấp, chưa có dòng ngân sách riêng để thực hiện chính sách dân tộc, do đó, đề án, chính sách nhiều nhưng thiếu nguồn lực thực hiện, chưa đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ ba, bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về công tác dân tộc thiếu ổn định và thống nhất từ trung ương đến địa phương; thiếu một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ và mang tính liên tục, kịp thời để phục vụ mục tiêu, quản lý và tham mưu chính sách. Mặt khác, vẫn còn nhiều đầu mối xây dựng, quản lý chính sách dân tộc, trách nhiệm chưa thật rõ ràng; năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, tham mưu chính sách về công tác dân tộc còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm thực tiễn.

Thứ tư, một số chính sách ban hành chưa tính đến việc tạo động lực cho người dân vùng đồng bào DTTS và miền núi chủ động vươn lên thoát nghèo; thiếu những cơ chế, chính sách khuyến khích làm giàu dành cho đối tượng là những người biết sản xuất, kinh doanh và có khả năng tạo ra thu nhập, việc làm cho cộng đồng. Bên cạnh đó, một số chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn vừa qua chưa quan tâm nhiều đến sự công bằng, bình đẳng đối với mọi đối tượng (người DTTS và người Kinh sinh sống cùng một địa bàn đôi khi chưa được thụ hưởng chính sách như nhau), do đó, quá trình thực hiện chính sách ít khuyến khích được nội lực, ý thức tự lực, tự cường của đồng bào DTTS và miền núi.

Thứ năm, sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong phân bổ nguồn lực, kiểm tra, đánh giá một số chính sách liên quan đến vùng đồng bào DTTS và miền núi chưa chặt chẽ; thiếu hệ thống chỉ tiêu thống kê nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào DTTS và miền núi (cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả và hiệu quả chính sách dân tộc). Văn bản hướng dẫn của một số bộ, ngành về địa bàn thực hiện chính sách có nhiều điểm chưa thống nhất, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Đội ngũ cán bộ cơ sở vùng đồng bào DTTS và miền núi và đội ngũ cán bộ trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc ở nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

***

Để huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trong giai đoạn 2021 - 2030, đòi hỏi phải có các chương trình, chính sách mang tính tổng thể, dài hạn, ổn định, bền vững, khắc phục được những hạn chế, yếu kém của giai đoạn vừa qua. Cần có quan điểm, tư duy, cách tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi trong tình hình mới. Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc trong Nghị quyết số 24-NQ/TW và các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII, xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vùng đồng bào DTTS và miền núi. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng đồng bào DTTS và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào các DTTS.

Đồng bào dân tộc Sán Chỉ ở huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn du khách quốc tế tham quan_Nguồn: Tỉnh đoàn Quảng Ninh 
Với tinh thần đó, ngày 18-11-2019, Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14, về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Ngày 15-2-2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP, “Về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Trong đó, giao Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Ủy ban Dân tộc đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan hoàn thiện Chương trình trình Chính phủ, gồm một số nội dung trọng tâm:

Một là, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi là đầu tư cho phát triển bền vững, gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là đồng bào các DTTS. Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống giữa đồng bào DTTS và miền núi với các vùng phát triển trong cả nước. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, nhất là chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm đạt được mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Hai là, phát huy tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào DTTS và miền núi; tăng nguồn đầu tư và hỗ trợ của ngân sách trung ương, bố trí đầy đủ, kịp thời nguồn vốn để thực hiện các chính sách được ban hành. Phát huy mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong vùng, đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các vùng khác và các nguồn tài trợ quốc tế để phát triển kinh tế nhanh, bền vững, hiệu quả. Trong đó, nguồn lực nhà nước là chủ yếu, quan trọng và có ý nghĩa quyết định, tạo điều kiện thuận lợi để huy động và thu hút các nguồn lực khác.

Ba là, phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vùng đồng bào DTTS và miền núi. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đối với các nước láng giềng. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nước, hệ động, thực vật, đa dạng sinh học, đặc biệt là bảo vệ và phát triển rừng.

Bốn là, đầu tư nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, có trọng tâm, trọng điểm là trách nhiệm của các cấp, các ngành và người dân. Nhà nước giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để tất cả các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước./.

---------------------

(1) (2)  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX), Phần 1, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019, tr. 95, tr.705
(3) Kết luận số 57-KL/TW, ngày 3-4-2009, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX”; Kết luận số 26-KL/TW, ngày 2-8-2012, “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 1-7-2004, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du, miền núi Bắc bộ đến năm 2020”; Kết luận số 12-KL/TW, ngày 24-11-2011, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 8-1-2002, về phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011 - 2020”;  Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012, “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 - 2020”; Kết luận số 25-KL/TW, ngày 2-8-2012, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16-8-2004, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2020”.

Theo TS. LÊ SƠN HẢI/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều