Vận dụng triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đổi mới giáo dục đại học

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò to lớn của giáo dục: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(1), suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo, xem đây là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước. Trong đó, giáo dục đại học có nhiệm vụ quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển nhanh, bền vững.
Thăm lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (năm 1958)_Nguồn: hochiminh.vn 
Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh - định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển giáo dục nước nhà

Về vai trò và vị trí của giáo dục: Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo, phát triển, hoàn thiện cả về tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ tri thức cho mỗi con người. Khi bàn về giáo dục, một trong những tư tưởng nổi bật và xuyên suốt, đồng thời cũng là mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “ai cũng được học hành”(2). Theo Người, con đường ngắn nhất thoát khỏi tình trạng kém phát triển chỉ có thể thông qua giáo dục: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(3). Sự nghiệp giáo dục phải phục vụ nhân dân, vì sự tiến bộ và phát triển của nhân dân, do nhân dân thực hiện. Người nhấn mạnh, thông qua giáo dục, “tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”(4).

Về mục tiêu của giáo dục: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu trọng tâm và xuyên suốt của nền giáo dục là vì con người, cho con người và hướng tới việc xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa. Người đã chỉ ra mục đích và sứ mệnh của nền giáo dục là “đào tạo các em nên những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(5); “phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”(6). Nền giáo dục phải thực hiện dạy và học theo hướng: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(7). Đó là mục đích, lý tưởng sáng ngời và là triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Về nội dung của giáo dục: Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến giáo dục toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của con người. Người thường xuyên nhắc nhở: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”(8), lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành chỉ có thế mới trang bị, cung cấp kiến thức, phát triển năng lực tư duy, mở mang trí tuệ cho người học đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước.

Về phương châm, phương pháp dạy và học: Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm mới, hiện đại về cách dạy và họcNgười chỉ rõ: “Trong một trường học, các thầy nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực… Phải dùng những lời lẽ giản đơn, những thí dụ thiết thực mà giải thích”(9), không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, tìm kiếm, sáng tạo những cách dạy hay, hiệu quả, phải gắn lý thuyết với thực hành, quan tâm nhiều hơn tới việc dạy tri thức làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phương pháp giáo dục thì theo nguyên tắc tự nguyện tự giác, giải thích, bàn bạc, thuyết phục, chứ không gò bó”(10). Phải lấy người học làm trung tâm, phải tùy vào hoàn cảnh, tùy vào từng đối tượng mà có phương pháp giáo dục khác nhau. Người căn dặn khi dạy phải gắn chặt lý luận với thực tiễn, “phải thực hiện tốt phương châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, tránh lối dạy nhồi sọ. Chương trình dạy học hiện nay còn có chỗ quá nhiều, quá nặng”(11).

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, người học “không nên học gạo, học vẹt”(12), cần có phương pháp học tập phù hợp, phải biết tự giác học tập, “phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách”(13) và “điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt”(14). Nghĩa là, Người đòi hỏi phải chống kinh viện, giáo điều, phải rèn luyện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong quá trình học tập.

Như vậy, triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự tiếp nối mạch nguồn triết lý giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, góp phần tạo nên triết lý giáo dục riêng của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta không ngừng nghiên cứu, vận dụng sáng tạo triết lý giáo dục Hồ Chí Minh vào việc đổi mới căn bản, toàn diện, phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong việc xây dựng và phát triển giáo dục đại học, để giáo dục thực sự trở thành nền tảng và động lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - nhìn từ thực tiễn

Triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nền giáo dục Việt Nam vận dụng vào thực tiễn đạt được những kết quả to lớn. Triết lý ấy được thể hiện nhất quán trong đường lối, chủ trương phát triển giáo dục của Đảng ta. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(15). Đến Đại hội XII, Đảng ta nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”(16). Kế thừa tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(17).

 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trò chuyện với một học sinh khuyết tật 
Những năm qua, giáo dục và đào tạo nước ta đã có những chuyển biến tích cực, chất lượng từng bước được nâng lên. Trong đó, vai trò và vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học dần được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực cho sinh viên. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho sinh viên được đẩy mạnh... Một số trường đại học đã triển khai đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương trình tiên tiến được chuyển giao từ các nước phát triển như các ngành tự động hóa, công nghệ thông tin, khoa học máy tính, công nghệ phần mềm, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo, quản lý hệ thống thông tin, công nghệ nano, vật liệu mới và kết cấu tiên tiến.... Ngoài ra, nhà trường còn đẩy mạnh việc triển khai thực hiện hỗ trợ khởi nghiệp đối với sinh viên. Điều đó cho thấy, giáo dục đại học của Việt Nam đang đi đúng hướng, bắt nhịp được với xu thế của thời đại.

Chất lượng giáo dục đại học từng bước được thế giới công nhận thông qua kiểm định và xếp hạng đại học quốc tế. Hiện nay, Việt Nam có 11 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong số 634 cơ sở giáo dục đại học được tổ chức giáo dục QS (Quacquarelli Symonds) đánh giá là tốt nhất trong toàn châu Á; nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong tốp 500 thế giới. Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2020 được vào nhóm 101-150 trường đại học trẻ thành lập dưới 50 năm có chất lượng giáo dục hàng đầu thế giới, theo xếp hạng của Tổ chức QS. Riêng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội lần đầu và là đại diện duy nhất của Việt Nam xuất hiện trong nhóm 200 của bảng xếp hạng các trường đại học trong “độ tuổi vàng” (The Best ‘Golden Age’ Universities)... Cũng trong năm 2020, lần đầu Tạp chí Vật liệu và linh kiện tiên tiến (JSAMD) của Đại học Quốc gia Hà Nội được xếp vào nhóm những tạp chí khoa học uy tín thế giới, về lĩnh vực vật liệu composite và vật liệu từ, điện tử, quang. Đó là kết quả từ sự nỗ lực vươn lên của giáo dục đại học Việt Nam.

Nền giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn tồn tại không ít hạn chế:

Thứ nhất, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới giáo dục đại học còn thiếu hệ thống. Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa được hiện đại hóa, còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục kỹ năng mềm, đạo đức, lối sống cho sinh viên chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ hai, công tác quản lý giáo dục đại học chậm đổi mới. Một số trường đại học chưa công khai các chỉ tiêu hoạt động của trường, đặc biệt những chỉ tiêu liên quan đến việc đánh giá xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực cũng như thế giới. Hiện nay, các trường mới chỉ tập trung vào công tác tuyên truyền, tuyển sinh đầu vào, giới thiệu chuyên ngành đào tạo, khoa đào tạo, sứ mệnh, tầm nhìn của trường. Nhưng vẫn có những trường chưa tập trung nhiều vào công tác nghiên cứu khoa học, chưa có nhiều bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín của thế giới; tỷ lệ bài có trích dẫn trên các tạp chí thế giới không nhiều; chưa thống kê theo dõi tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm…, trong khi đây lại là những tiêu chí đánh giá quan trọng, thường xuyên được các trường đại học trong khu vực cũng như trên thế giới quan tâm.

Thứ ba, hệ thống cơ chế, chính sách thực hiện tự chủ đại học chưa đồng bộ, một số văn bản khung về cơ chế tự chủ đang sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với các quy định mới của pháp luật, nên gây một số khó khăn nhất định trong việc thực hiện tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo. Bên cạnh đó, nhận thức của một số cơ sở giáo dục đại học về tự chủ và năng lực quản lý, điều hành của một số cán bộ quản lý, còn hạn chế; tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh.

Tăng cường đổi mới giáo dục đại học trong thời kỳ mới

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nước ta, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Trước những yêu cầu mới của thời đại, trên cơ sở vận dụng triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nâng cao chất lượng, giáo dục đại học nước ta cần có sự chuyển biến, đổi mới sáng tạo, tập trung thực hiện một số giải pháp:

Một là, các trường cần xác định rõ phương thức của giáo dục đại học trong tình hình mới. Phát triển giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực. Điều này đòi hỏi các trường phải đi trước đón đầu, mở những ngành học mới theo nhu cầu xã hội và xu thế phát triển kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, như chương trình tiên tiến, chất lượng cao, liên kết quốc tế. Gắn trách nhiệm xã hội của giáo dục đại học với sứ mệnh “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài”, phục vụ sự phát triển đất nước trước yêu cầu mới.

Niềm vui ngày tốt nghiệp_Ảnh: Tư liệu 
Hai là, đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại học theo xu hướng hội nhập quốc tế. Với mục đích “đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực người học”(18), yêu cầu đặt ra đối với các trường đại học ngoài việc “gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc”(19), các trường đại học cần phải trang bị được cho người học kỹ năng thu thập, xử lý và kiểm soát thông tin, trải nghiệm học tập đồng hành với thực tiễn, thực tập và các công nghệ mới. Chương trình đào tạo phải chuyển đổi phù hợp với xu thế liên ngành, xuyên ngành, nhất là những ngành khoa học tự nhiên, công nghệ - kỹ thuật, kinh tế... Thực hiện sự đổi mới trên chính là làm theo triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sinh viên đại học đã đến tuổi trưởng thành, thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới kết hợp với thực tiễn nước ta để thiết thực giúp cho công cuộc xây dựng nước nhà”(20).

Ba là, các trường đại học tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Đây là điều kiện cho các trường đại học đổi mới, nâng cao năng lực quản trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về tự chủ, đồng thời kiện toàn hội đồng trường theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế nội bộ, tăng cường phân cấp, phân quyền và công khai, minh bạch để thực hiện hiệu quả mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong các trường đại học.

Bốn là, nhà trường nhanh chóng đổi mới tư duy quản lý giáo dục. Các đơn vị trong các trường đại học cần đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, thực hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên các lĩnh vực như tài chính, cơ sở vật chất, thực hiện nguyên tắc và chế độ trong quản lý, trong công việc, trong đào tạo… Xây dựng đội ngũ viên chức quản lý và giảng viên có phẩm chất đạo đức, đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy tiên tiến và hiện đại; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, có cơ chế khuyến khích giảng viên nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy. Chủ động đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng mở, nội dung giảng dạy gắn với yêu cầu thực tiễn./.

-----------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 528
(2), (3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 156, 35, 315, 34
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 528
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 208
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 402
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 120
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 378
(11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 746, 402
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 98
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 226
(15) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
(16), (18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 115, 115
(17), (19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 136, 138
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 615

Theo HỒ THỊ HÀ - NGUYỄN THÚY DUY/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều