Lào Cai là tỉnh miền núi, vùng cao biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc, trước khi tái lập, Lào Cai thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn (cũ). Ngày 12/8/1991, theo Nghị quyết Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9, tỉnh Lào Cai được tái lập với diện tích 7.500km2, dân số 470.000 người, bao gồm 9 đơn vị hành chính là thị xã Lào Cai, và 8 huyện: Bát Xát, Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn, Than Uyên. Hiện nay, dân số toàn tỉnh khoảng 705,628 người; với 25 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số tập trung đông nhất như: dân tộc Mông, Tày, Dao, Giáy, Nùng, Phù Lá, Hà Nhì, dân tộc Bố Y, Hoa, Sán Chay, Sán Dìu, La Chí, Khơ-mú... và còn lại là các dân tộc khác.
Từ những năm 1991 trở về trước, mặc dù kinh tế có những biến chuyển bước đầu, nhưng Lào Cai vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách: cơ sở hạ tầng thấp kém (giao thông đến tỉnh và từ tỉnh đến huyện, xã rất khó khăn); một số huyện không có điện lưới quốc gia; các hộ dân thuộc diện đói nghèo nhiều; nền kinh tế Lào Cai có xuất phát điểm thấp, kinh tế tự cung tự cấp là chủ yếu, sản xuất hàng hóa hầu như không đáng kể. Kể từ khi giải phóng Lào Cai, nhất là sau khi tái lập tỉnh vào năm 1991, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng.
Trước năm 2000, các chính sách dân tộc đã tập trung đầu tư nhằm thực hiện công tác định canh định cư đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh, bao gồm các chương trình: định cạnh định cư; 327; sắp xếp dân cư; trung tâm cụm xã; hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn;… Các chính sách đã đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống, quy hoạch bố trí, sắp xếp dân cư; công tác dân số, y tế, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục và đào tạo.
|
Nghề truyền thống mang lại thu nhập cho nhiều lao động dân tộc thiểu số tại Lào Cai. Ảnh: Tùng Dương (Nguồn Báo Đại biểu Nhân dân) |
Từ năm 2000 đến nay, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách dân tộc bằng các chương trình, đề án, dự án lớn tập trung đầu tư theo vùng: vùng khó khăn; vùng đặc biệt khó khăn (xã, thôn đặc biệt khó khăn) đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển sản xuất; giáo dục đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực; phát triển văn hoá; y tế, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào. Những chính sách do nhiều cơ quan, đơn vị được giao quản lý, điều hành qua đó cho thấy sự quan tâm của cả hệ thống chính trị đối với việc chăm lo và tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cho vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, cụ thể là các chương trình, chính sách, dự án, đề án như:
(1) Các chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, hỗ trợ hộ nghèo: Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (giai đoạn I, sau này là Chương trình 135 giai đoạn II: từ 2009 - 2014, giai đoạn III: 2015 - 2020) (gọi tắt là Chương trình 135); Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt - Trung đến năm 2010; Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du, miền núi Bắc bộ; Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày 7/12/2001 về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005; Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 và Quyết định số 1592/2009/ QĐ-TTg ngày 12/10/2009; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, giai đoạn 2006 - 2010 theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg, ngày 5/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ (nay là Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/1/2022 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025); Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt chương trình bố trí dân cư các vùng thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do; Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về xóa nhà tạm; Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 và Quyết định số 1342/2009/QĐ-TTg ngày 25/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 7/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Chính sách hỗ trợ dầu hỏa cho các hộ ở những thôn chưa có điện theo Quyết định số 289/2008/QĐ-TTg ngày 18/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình Xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 800/2010/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 (nay là Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025);... và nhiều chương trình lồng ghép khác.
(2) Các chính sách văn hóa đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào; các thiết chế văn hoá ở cơ sở được đầu tư; nhiều thôn, bản và gia đình người dân tộc thiểu số đã được công nhận là thôn văn hoá, gia đình văn hoá; hệ thống phát thanh, truyền hình từ chỗ còn nhiều vùng chưa được phủ sóng đến nay đã có trên 90% người dân được nghe đài phát thanh; trên 80% hộ dân được xem truyền hình. Các hoạt động văn hoá - thể thao được duy trì tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết giữa các dân tộc; những giá trị và bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn, phát triển.
(3) Về sự nghiệp giáo dục, đào tạo gồm các chính sách hỗ trợ cho học sinh như: Chính sách cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ; Chính sách hỗ trợ học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số học tại các trường đào tạo công lập theo Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg; Quyết định số 82/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg, ngày 20/7/2007 và Quyết định số 101/2009/QĐ-TTg ngày 5/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg ngày 21/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành một số chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú; Quyết định số 239/2010/QĐ-TTg ngày 9/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 - 2015 (Hỗ trợ tiền ăn trưa cho trẻ em học mẫu giáo 5 tuổi); Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, ngày 14/5/2010 của Chính Phủ quy định về miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015; Quyết định số 2123/2010/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010 - 2015; Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg, ngày 26/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011 - 2015;... Các chính sách đã phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc. Đến nay, 100% xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở tiếp tục được duy trì; các chính sách đã giúp cho đồng bào khắc phục khó khăn, tích cực đưa con em tới trường, nâng tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 96%; tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần ngày càng tăng.
(4) Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào được thực hiện theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo và hiện nay thực hiện theo Luật Bảo hiểm Y tế; Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản… Các chính sách đã đạt được những thành tựu quan trọng; đến nay 100% số xã đã có trạm y tế; 100% thôn bản có nhân viên y tế; cơ sở vật chất của ngành y tế đã được nâng cao; đã thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho đồng bào; kiểm soát, khống chế được dịch bệnh, giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đặc biệt, đã nâng cao nhận thức của người dân, người ốm được đưa đến cơ sở y tế để khám và điều trị bệnh; từng bước xoá bỏ các hủ tục lạc hậu trong đồng bào.
(5) Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đã được quan tâm: Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 7/1/2004 định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010. Đã tăng tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số, nâng cao năng lực cho cán bộ ở cơ sở, hướng đến đạt chuẩn theo quy định. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số cấp tỉnh, huyện từng bước được nâng lên cả về số lượng và chất lượng; cán bộ người dân tộc thiểu số đã tham gia ở các vị trí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh và lãnh đạo, quản lý ở hầu hết các cơ quan trên địa bàn tỉnh.
(6) Các chính sách đào tạo nghề, theo các đề án: Đề án “Dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ”; Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 - 2015” theo Quyết định số 295/2010/QĐ-TTg ngày 26/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Chính sách đào tạo nghề thông qua các đề án đã đào tạo nghề cho đồng bào vùng nông thôn, trang bị kiến thức, kỹ thuật sản xuất nông lâm - nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm; phát triển các nghề gia công, kỹ thuật góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào.
(7) Chính sách cấp không thu tiền một số loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn: Quyết định số 975/QĐ-TTg; Quyết định số 2472/QĐ-TTg; Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 9/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 752/QĐ-TTg ngày 23/6/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc đặt hàng cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2023 - 2025; Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ 2 quyết định do Thủ tướng Chính phủ ban hành (gồm Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 16/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn” và Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 9/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn” giai đoạn 2019 - 2021)… đã mang lại những hiệu quả thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông tin, góp phần nâng cao nhận thức, trình độ dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc; giúp đồng bào nắm rõ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc.
Để cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương trên, Lào Cai luôn quan tâm ưu tiên dành nguồn ngân sách lớn để phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với hơn một trăm chính sách đã và đang được triển khai, Lào Cai đã tập trung cho hỗ trợ phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó góp phần thúc đẩy công tác giảm nghèo trên địa bàn.
Đặc biệt là 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (Giảm nghèo bền vững, Xây dựng nông thôn mới, Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi), trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025) (theo Quyết định số 1719/2021/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ), giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai trên địa bàn tỉnh Lào Cai với 10 dự án thành phần 14 tiểu dự án và 36 nội dung bao trùm cơ bản các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục...
Theo đó, tỉnh Lào Cai đã tập trung các nguồn lực, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trên địa bàn đã quyết liệt triển khai đồng bộ các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình. Ngoài nguồn vốn ngân sách Trung ương giao năm 2022 chuyển nguồn và năm 2023 là 1.183.235 triệu đồng, tỉnh Lào Cai đã huy động hơn 482.500 triệu đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Sau 3 năm triển khai Chương trình, công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh được đẩy mạnh, đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào từng bước được nâng lên; việc thực hiện an sinh, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, giảm nghèo được quan tâm đầu tư.
Hiện nay, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông đến trung tâm xã; tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 96,8%; tỷ lệ hộ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp đạt 97,7%; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình đạt 98,3%, được nghe đài phát thanh đạt 99,6%; tỷ lệ thôn bản, tổ dân phố có nhà sinh hoạt cộng đồng đạt 98%; tỷ lệ thôn có đội văn hóa, văn nghệ truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng đạt 68%; tỷ lệ phòng học được xây dựng kiên cố đạt 81,7%; Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 4 tuổi, 5 tuổi đến trường đạt 99,7%; tỷ lệ người từ 15 đến 60 tuổi đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đạt 94,7%; tỷ lệ trạm y tế được xây dựng kiên cố đạt 95,5%; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế đạt 97,1%. Tỷ lệ phụ nữ sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự giúp đỡ của cán bộ y tế đỡ đạt 91%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao/tuổi) còn dưới 26%; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân (cân nặng/tuổi) còn dưới 15%.
Theo báo cáo về kết quả giảm nghèo năm 2023 của tỉnh Lào Cai cho thấy số hộ nghèo còn lại 26.791 hộ/179.305 hộ trên địa bàn, chiếm 14,94%; tỷ lệ nghèo giảm 4,43%, tương ứng giảm 7.793 hộ nghèo; Hộ cận nghèo còn lại 18.375 hộ/179.305 hộ chiếm tỷ lệ 10,25% so với tổng số hộ trên địa bàn, giảm 1,92%, tương đương giảm 3.357 hộ so năm 2022. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện nghèo giảm 7,43%, tương đương giảm 3.929 hộ nghèo (Bắc Hà giảm 9,17%; Si Ma Cai giảm 7,35%; Mường Khương giảm 6,56%; Bát Xát giảm 6,82%). Năm 2024, tỉnh Lào Cai phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đạt trên 4%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn các huyện nghèo giảm từ 7,6% trở lên. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 6% trở lên. Thu nhập bình quân đầu người (GRDP) toàn tỉnh đến năm 2024 đạt 104 triệu đồng/năm, trong đó thu nhập bình quân đầu người của các huyện nghèo đạt trên 44,6 triệu đồng/năm. Trong đó, đặc biệt, tỉnh phấn đấu giảm trên 9.000 hộ nghèo và hộ cận nghèo so với năm 2023 theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia; 100% các huyện nghèo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh;…
Hỗ trợ xây dựng, nhân rộng trên 25 mô hình giảm nghèo, xây dựng và phê duyệt trên 100 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững. Phấn đấu trên 80% người có khả năng lao động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ trên địa bàn huyện nghèo được hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm nghiệp nhằm đổi mới phương thức và kỹ thuật sản xuất.
Bên cạnh đó, 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu được hỗ trợ kết nối, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tìm việc làm. Tối thiểu 200 người lao động thuộc các huyện nghèo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 120 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo); 100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 16 tuổi tại các huyện nghèo, các xã, thôn đặc biệt khó khăn xuống dưới 27,2%.
Công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị được quan tâm. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, tăng cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Việc bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống đồng bào luôn được quan tâm. Công tác quốc phòng, an ninh được đảm bảo, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững. Đặc biệt, việc thực hiện hiệu quả công tác dân tộc, chính sách dân tộc đã góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo lòng tin của đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
Tính đến hết năm 2023 có 6 chỉ tiêu, mục tiêu thực hiện chương trình đạt và vượt kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025 đề ra, cụ thể: Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; Tỷ lệ học đến trường (Mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông); Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng được hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng… Với mục tiêu hoàn thành các nội dung kế hoạch đã đề ra trong năm 2024, thì việc giải ngân nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 là rất quan trọng.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy kinh tế Lào Cai không chỉ có sự tăng trưởng nổi bật, mà cơ cấu kinh tế còn có sự chuyển dịch tích cực. Nhờ đó, từ một tỉnh với nền kinh tế nông - lâm nghiệp là chủ yếu, đến nay, Lào Cai trở thành tỉnh phát triển kinh tế tương đối toàn diện, gắn kết nông nghiệp - công nghiệp - thương mại, dịch vụ, du lịch... Tỉnh đã xác định nông nghiệp và nông thôn là mặt trận hàng đầu, công nghiệp - xây dựng là nền tảng và thương mại, du lịch, dịch vụ là mũi nhọn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Lào Cai trong những năm vừa qua nói chung là cao và khá ổn định. Ngành có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là thương mại và du lịch, đây cũng là ngành mà tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển. Có được những bước phát triển nổi bật nói trên là do nhiều nhân tố cơ bản như:
Thứ nhất, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và sự vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của các cấp bộ Đảng và chính quyền địa phương tỉnh Lào Cai.
Thứ hai, Lào Cai là một tỉnh miền núi có 25 dân tộc, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm số đông, trong thời kỳ đổi mới, tỉnh vẫn tiếp tục phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng.
Thứ ba, Lào Cai có nhiều tiềm năng, thế mạnh; đặc biệt là về tài nguyên đất, rừng, thương mại, du lịch, công nghiệp khai thác, chế biến... và bước đầu tỉnh đã khai thác tốt được các tiềm năng, thế mạnh này.
Thứ tư, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ đã tập trung đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm tạo ra những bước chuyển biến về kinh tế - xã hội bằng nhiều nguồn vốn và theo nhiều nội dung. Tỉnh Lào Cai với vị thế thuận lợi của mình đã thu hút và bước đầu sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) để phát triển kinh tế - xã hội.
Thời gian qua, mặc dù có được những thuận lợi, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là do ảnh hưởng của hoàn lưu cơn bão số 3 vừa qua, Lào Cai là một trong số các tỉnh phía Bắc (gồm Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội…) bị thiệt hại nặng nề nhất về người và tài sản do sạt lở, lũ quét gây ra. Để thực hiện hiện hiệu quả các chương trình, chính sách, nhất là các Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 (giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025), cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, luôn tranh thủ và làm tốt vai trò tham mưu của Ban Dân tộc đối với Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác dân tộc, qua đó được sự chỉ đạo thống nhất, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị của địa phương. Kịp thời phát hiện, tháo gỡ, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện cho cơ sở, giúp đỡ, phối hợp với chính quyền cơ sở vùng dân tộc để thống nhất hướng giải quyết và giải pháp thực hiện các chương trình, dự án, các chính sách dân tộc.
Hai là, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai tiếp tục tăng cường, đồng bộ các khâu trong triển khai Chương trình ở địa phương từ công tác tổ chức chỉ đạo; truyền thông, tuyên truyền, vận động đến công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát đánh giá. Trong đó, từng khâu có xác định cách thức cụ thể, việc làm trọng tâm. Trong tổ chức chỉ đạo, quản lý, việc phân công nhiệm vụ cụ thể người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc các ngành, các cấp địa phương thông qua quy chế hoạt động Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia các cấp; trong quản lý ở địa phương đẩy mạnh việc phân cấp nhằm tăng cường tính chủ động cho cấp huyện, cấp xã.
Ba là, các địa phương, đơn vị chủ đầu tư, đơn vị xây dựng kế hoạch giải ngân các nội dung, nhiệm vụ chi tiết hằng tuần, báo cáo khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện để Ủy ban nhân dân tỉnh kịp thời chỉ đạo giải quyết.
Bốn là, công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát đánh giá Chương trình, ngoài hình thực văn bản, tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn thì Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh cùng lãnh đạo các ngành ở tỉnh xuống địa phương, cơ sở nắm tình hình, trực tiếp cho ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện của cơ sở. Các đoàn kiểm tra, giám sát, ngoài việc đánh giá tình hình thực hiện thì phải tăng cường công tác hướng dẫn cơ sở để thực hiện các nội dung chương trình nhằm bảo đảm đúng quy định, phát huy hiệu quả.
Năm là, ngành công tác dân tộc cần phối hợp với các đơn vị liên quan để có thông tin chính xác thiệt hại ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi do thiên tai; chia sẻ với những khó khăn, mất mát mà địa phương phải gánh chịu do thiên tai gây ra; đồng thời động viên, chia buồn sâu sắc đối với các gia đình bị thiệt hại cả về người và tài sản. Các địa phương cần tiếp tục tập trung tìm kiếm người còn mất tích, cứu chữa người bị thương, hỗ trợ kịp thời nhu yếu phẩm để người dân sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời, ngành công tác dân tộc địa phương cần phối kết hợp với các cơ quan liên quan để thống kê, rà soát, phân loại các đối tượng bị thiệt hại, mức độ thiệt hại để đề xuất chính sách hỗ trợ.
Sáu là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể ở địa phương cần tăng cường kiểm tra, giám sát, đối với khu vực nông thôn, vùng cao, phần đông người dân bị thiệt hại là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có nhiều hộ nghèo. Không chỉ mất nhà, mất đất sản xuất, mất tài sản, đặc biệt là mất người mà cuộc sống của họ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Do vậy, địa phương cần làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng tránh mưa lũ, sạt lở đất, rút kinh nghiệm từ vụ sạt lở ở thôn Làng Nủ, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
Có thể nói, các chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ thông qua các chương trình, dự án, đề án được thực hiện đã làm cho kinh tế - xã hội ở các địa phương trong cả nước nói chung và của tỉnh Lào Cai nói riêng được phát triển mạnh mẽ, bền vững, cơ sở vật chất ngày càng được củng cố, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, hệ thống chính trị cơ sở từng bước được củng cố; đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng và chất lượng; quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh được củng cố tăng cường; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng vững mạnh. Việc triển khai các chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát triển kết hợp với công tác tuyên truyền, vận động đã nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc ngày càng gắn bó, tin tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
NGUYỄN DUY DŨNG - Thạc sĩ,
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, Ủy ban Dân tộc