Thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng phủ định, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa ra các luận điểm thúc đẩy bạo lực, chiến tranh, gây tác động tiêu cực đến hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị; chống lại chính trị và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Mục đích của chúng là làm thay đổi nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Nhận thức đúng đắn âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, trong suốt quá trình cách mạng, đặc biệt là thời gian gần đây, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, việc vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Sự cần thiết vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay
Những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không ngừng củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, sau khi có Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, luôn toan tính tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, lý luận trong đời sống chính trị - xã hội của nước ta, với âm mưu cơ bản, lâu dài và rất thâm độc là xoay chuyển quỹ đạo phát triển của đất nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành quả cách mạng vĩ đại, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đất nước chính là bằng chứng thuyết phục, chứng minh việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân, vừa phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Điều này đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng:
“Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”1.
Từ đây, Đảng ta đã đưa ra một nhận định quan trọng mang tính tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về đường lối đổi mới đất nước: “Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”2. Đây là mô hình được thế giới nhìn nhận là rất đặc biệt, giải quyết được vấn đề về ổn định, huy động mọi nguồn lực, nhất là sự tham gia hết sức đông đảo và có trách nhiệm cao của Nhân dân.
Mặt khác, Đảng ta cũng luôn quan tâm đến công tác nghiên cứu lý luận, coi đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu lên hai vấn đề lớn về mặt lý luận, đó là việc nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò “dân là gốc”, là trung tâm, chủ thể, vừa tham gia, vừa thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
Việc triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng càng thành công, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị càng điên cuồng chống phá. Chúng đã sử dụng khoa học công nghệ mới để chống phá một cách tinh vi, đây là cuộc đấu tranh bền bỉ, thường xuyên, quyết liệt, đồng bộ, cần sự tham gia vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Vì vậy, cả hệ thống chính trị và người dân cần tích cực hơn nữa trong đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, làm tốt hơn nữa trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII.
Tinh thần sáng tạo của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới
|
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam - ẢNH: QUANG VINH |
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3. Theo đó, tinh thần sáng tạo thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, khẳng định được vị thế, vai trò, nhiệm vụ của chủ thể lãnh đạo, quản lý đó là Đảng và hệ thống chính trị. Điểm mới lần này là gắn “xây dựng” với “chỉnh đốn”; giữa Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Tuy nhiên, Đảng không đồng nhất với hệ thống chính trị. Đảng mạnh phải được biểu hiện qua hệ thống chính trị vững mạnh do Đảng lãnh đạo. Nhưng không phải lúc nào cũng tự nhiên như vậy, vì giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có sự phân công, phân nhiệm chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không bao biện, làm thay.
Ở khía cạnh nào đó, Đảng vững mạnh mà các tổ chức còn lại chưa vững mạnh thì cũng không đem lại hiệu quả thực sự. Yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị phải hướng tới trong sạch, vững mạnh. Chỉ khi Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh mới có khả năng dẫn dắt đất nước, dân tộc đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII thể hiện được khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam với động lực: “phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”4. Ở đây, ý chí, khát vọng không phải chỉ của Đảng mà của cả dân tộc. Khát vọng mãnh liệt của dân tộc Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh. Động lực dân tộc đã hàm chứa trong nó những động lực khác mà chủ đề các đại hội trước đây đề cập đến (như động lực về đại đoàn kết, dân chủ, về văn hóa…). Ngoài ra, còn phải phát huy sức mạnh thời đại, đó là tổng hợp các yếu tố do thời đại tạo ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa….
Thứ ba, tinh thần sáng tạo của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII thể hiện được tầm nhìn của thời đại là: “đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Thế giới đang trong giai đoạn cách mạng công nghiệp với sự phát triển của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa; vì thế đất nước ta không thể phát triển nhanh, bền vững được nếu không gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành công khoa học - công nghệ mới và tiên tiến của thế giới.
Thứ tư, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đặt quyết tâm “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc xác định mục tiêu trở thành “nước phát triển, thu nhập cao” sẽ rõ ràng, phù hợp, dễ định lượng hơn (trên thế giới đã có bộ tiêu chí về nước kém phát triển, đang phát triển, nước phát triển). Mục tiêu này có chủ đích hướng tới các sự kiện trọng đại của đất nước và dân tộc (100 năm thành lập Đảng - năm 2030, 100 năm thành lập nước - năm 2045).
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đã có sự kế thừa, bài học kinh nghiệm các Đại hội trước đây, đồng thời có sự bổ sung, phát triển những luận điểm mới phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và thời đại trong bối cảnh mới. Đây là những luận cứ khoa học, chúng ta cần vận dụng để tăng tính chiến đấu, đập tan các quan điểm sai trái, thù địch nhằm vào Đảng và Nhà nước ta.
Một số giải pháp cơ bản vận dụng Nghị quyết Đại lần thứ XIII vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới
Một là, quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, nhận thức rõ đây là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Khẳng định vững chắc quan điểm có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa sống còn của Đảng ta, đó là: kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, huy động sự tham gia của Nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội để xây dựng mạng lưới đấu tranh rộng khắp, với sự vào cuộc quyết liệt của nhiều người, trên nhiều mặt trận, nhiều diễn đàn để tạo thành thế trận vững chắc, nâng cao khả năng giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, cấp ủy và chính quyền các cấp.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan truyền thông, báo chí trong thực hiện nhiệm vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay. Xác định các cơ quan truyền thông, báo chí có vai trò nòng cốt, chủ động dẫn dắt, định hướng, phản ánh những thông tin có nội dung tích cực, sắc bén, góp phần lan tỏa, khẳng định giá trị nền tảng tư tưởng của Đảng. Hạn chế tối đa những thông tin xấu, độc lan tràn, mất kiểm soát, gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý, tư tưởng, dư luận xã hội, gây khó khăn, cản trở trong việc nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái, thù địch.
Ba là, thường xuyên nghiên cứu Nghị quyết Đại hội XIII. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập, nghiên cứu, cập nhật, bổ sung những nội dung của Nghị quyết vào từng hành động, việc làm cụ thể; chủ động tiếp cận để nắm vững những quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo, những nội dung cốt lõi và vấn đề mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp một cách đầy đủ, nghiêm túc, trách nhiệm.
Đồng thời so sánh với những nội dung của Đại hội XII, các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương trước đây để nhận thức rõ sự kế thừa, bổ sung, phát triển tư duy, lý luận của Đảng trên các phương diện lớn và các lĩnh vực cụ thể, cũng như trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Trên cơ sở đó, việc vận dụng những nội dung của Văn kiện mới thực sự thuyết phục, sát với tình hình thực tế ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị trong từng lời nói và việc làm, tạo được niềm tin của cán bộ, đảng viên, Nhân dân.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định rõ trách nhiệm học tập, quán triệt Văn kiện không chỉ là thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên, mà cao hơn là truyền thụ đường lối, quan điểm của Đảng đến với người dân, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và biến quan điểm, đường lối thành hành động cách mạng cụ thể. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin của người dân đấu tranh làm thất bại luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Bốn là, đặc biệt coi trọng việc kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, nhưng “chống” cũng phải quyết liệt, hiệu quả. Đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nhiều cấp độ, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực và mỗi tầng lớp nhân dân.
Cùng với việc nhận diện rõ các thông tin xấu, độc, xuyên tạc, cần kết hợp đấu tranh trực diện và gián tiếp để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo kịch bản chặt chẽ, tổ chức chiến dịch truyền thông thống nhất, đa dạng, rộng rãi, có sự phối hợp đồng bộ của nhiều lực lượng để tăng tính hiệu quả và sức lan tỏa.
Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về truyền thông, báo chí, nhất là quản lý thông tin trên internet và mạng xã hội. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý các hoạt động trên không gian mạng, tạo căn cứ để cảnh báo, răn đe và xử lý các trường hợp vi phạm.
Năm là, gắn kết chặt chẽ yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên, học viên, sinh viên, với công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ nội bộ, xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong Nhân dân, nhất là trong giới trẻ về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử Đảng, từ đó hình thành nhân sinh quan cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực phân biệt đúng - sai, tốt - xấu, nâng cao khả năng miễn nhiễm trước các thông tin xấu, độc.
Tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận có bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phương pháp và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận; xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ trẻ. Tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm điều kiện làm việc để người tài chuyên tâm, nỗ lực đóng góp vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tích cực tìm kiếm, nhân rộng những mô hình hay, những cách làm đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến; chia sẻ kinh nghiệm tuyên truyền, đấu tranh; khen thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Việc vận dụng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay là cần thiết khách quan đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Tuy nhiên, việc vận dụng của các cấp ủy, tổ chức đảng, của các cơ quan, đơn vị và của mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể trong nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr. 25 - 26.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 26.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr. 57.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập 1, tr.111 - 112.
Đặng Bá Minh - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.
Đặng Công Thành - Thạc sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng.