Quang cảnh phiên khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII.
Quan điểm của Đảng về văn hóa lãnh đạo khẳng định giá trị và bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lãnh đạo; bám sát vào thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo văn hóa lãnh đạo vào trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là có giá trị đối với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những giá trị bổ sung, phát triển về văn hóa lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, khẳng định sự cần thiết quan tâm xây dựng văn hóa lãnh đạo, biểu hiện toàn diện trong mọi lĩnh vực đời sống, trong mọi hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
Đảng ta xác định văn hóa lãnh đạo là những hạt trong văn hoá của đảng cầm quyền, với mục tiêu cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc giành và nắm chính quyền, mà là bằng chính quyền đó sẽ xây dựng thành công một nước Việt Nam giàu mạnh với một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, Nhân dân được sống trong ấm no và hạnh phúc. Chỉ có như vậy, Đảng mới thực sự “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân”1. Lý tưởng đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và dân tộc, mang đậm tính văn hoá và làm nên những nét văn hoá lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ sở nền tảng tư tưởng “cách mạng và khoa học” và bằng trí tuệ và tư duy lý luận của mình, Đảng có khả năng nhận thức được quy luật lịch sử khách quan, có khả năng lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, đất nước và nhân dân, vừa phù hợp với xu thế vận động của thời đại. Trên cơ sở đó, Đảng hoạch định đường lối, chính sách và tổ chức lực lượng thực hiện các quyết sách đó. Tất cả các quan điểm đó được phản ánh trong cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.
Vì thế, cương lĩnh chính trị của Đảng kết tinh các giá trị văn hoá, trí tuệ của Đảng cầm quyền, các giá trị đó đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại; trí tuệ đó lấy phép biện chứng hành động duy vật làm hạt nhân cho mọi tìm tòi sáng tạo. Đây là một tiêu chí của văn hoá lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, khẳng định văn hoá lãnh đạo thể hiện xây dựng nghị quyết, đường lối và hiện thực hoá nghị quyết, đường lối đó vào thực tiễn cuộc sống.
Trong đường lối lãnh đạo và cương lĩnh của Đảng, tức là về mặt lý thuyết, Đảng đã khẳng định tất cả mọi hoạt động của Đảng là vì hạnh phúc của Nhân dân. Nhưng cái khó nhất, cũng là văn hoá cao nhất của đảng cầm quyền lại không phải nằm ở lý luận mà phải nằm ở thực tiễn. Hành động để đem lại hiệu quả thật sự cho dân chúng trong các lĩnh vực, lấy hiệu quả đó làm thước đo mới là điều khó nhất của một đảng cầm quyền. Cái khó trong khi làm không phải là khó khăn, vất vả mà cái chính là không vượt qua được chính mình để thực hiện quan điểm. Đây là khâu có nhiều khó khăn hơn so với việc ra nghị quyết, đòi hỏi Đảng không chỉ có nỗ lực, quyết tâm cao với nhiều phương pháp, cách thức khác nhau mà điều quan trọng hơn là phải có nghệ thuật chỉ đạo thực hiện, đưa các nghị quyết đó vào thực tiễn cuộc sống, tức là phải vừa bảo đảm tính cách mạng, tính khoa học và sáng tạo, vừa biết vận dụng, xử lý một cách linh hoạt và mềm dẻo các nghị quyết đó trong thực tiễn, biến nghị quyết thành hiện thực sinh động.
Việc hiện thực hoá nghị quyết trong thực tiễn cuộc sống là một thước đo cao nhất của văn hoá lãnh đạo. Một nghị quyết dù đúng đắn, có đủ cơ sở khoa học đến mấy vẫn cứ là nghị quyết nằm trên giấy, nếu sau đó không có một quá trình tổ chức thực hiện và được hiện thực hoá trong thực tiễn cuộc sống. Chỉ có như vậy Đảng mới thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật sự trung thành của Nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố được lòng tin của Nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Ba là, bổ sung, phát triển lý luận về văn hoá lãnh đạo của Đảng biểu hiện nội dung cụ thể trong tổ chức, cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là trong phẩm chất, phương pháp, tác phong công tác của người cán bộ, đảng viên.
Văn hoá lãnh đạo được biểu hiện rõ nét chính là thi hành một nền chính trị liêm khiết, trong sạch. Mọi hoạt động lãnh đạo phải dựa trên cơ sở đạo đức, hướng tới những hành vi có đạo đức, mà cụ thể xây dựng thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Để thực hiện mục tiêu lãnh đạo, các chủ thể lãnh đạo phải có đạo đức, các phong trào lãnh đạo phải hướng tới đạo đức. Nội dung nhận thức mới của Đảng ta về văn hóa lãnh đạo thể hiện chiều sâu và là nét đặc sắc trong quan điểm về văn hoá lãnh đạo, muốn vậy yêu cầu mọi tổ chức đảng, các tổ chức chính quyền, đoàn thể phải luôn trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, có như vậy Đảng mới luôn thực sự là hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc và thời đại, luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật sự trung thành của Nhân dân trong mọi thời kỳ cách mạng. Đồng thời, là cơ sở để Đảng tập hợp được quần chúng nhân dân đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, để Nhân dân tin và đi theo Đảng đến cùng.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện và thấm nhuần đạo đức cách mạng, với các phẩm chất tiêu biểu: suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, thực hiện tốt đường lối chủ trương chính sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết, toàn tâm, toàn ý phục vụ Nhân dân; vì Đảng và dân mà hy sinh quên mình; gương mẫu trong mọi việc; không ngừng học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin; luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng, cải tiến công tác, cùng đồng chí mình tiến bộ; thực hành chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu; phải liên hệ gắn bó với quần chúng, hoà mình với quần chúng, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng và đặc biệt là phải gương mẫu trước quần chúng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, sống giản dị, trong sạch.
Do vậy yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”2. Khi đó mỗi cán bộ, đảng viên là một tấm gương sáng về hành vi đạo đức, thì họ luôn được quần chúng nhân dân tin yêu, hết lòng hết sức tin theo Đảng, là cơ sở để củng cố mối quan hệ Đảng và Nhân dân.
Bốn là, văn hóa lãnh đạo thể hiện trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, lấy lợi ích của Nhân dân làm mục đích cho hoạt động của mình.
Trong bối cảnh và điều kiện mới, nhận thức của Đảng về văn hoá lãnh đạo xác định: Thước đo văn hoá lãnh đạo của Đảng là lòng dân. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ. Đảng cầm quyền để dân làm chủ. Đảng cầm quyền nhưng dân là gốc. Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân; trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân.
Bài học quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta ngày nay đó là: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”3. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhân dân, thì chúng ta phải “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Đây chính là cách lãnh đạo, quản lý bằng thuyết phục, cảm hoá, là “chính trị đời sống” từ đó sẽ tạo ra quyền uy của Đảng, thay vì áp đặt quyền lực.
Khi chính quyền thuộc về Nhân dân, Đảng trở thành đảng cầm quyền, thì Đảng phải làm thế nào để thực hiện tốt nghĩa vụ kép là: “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Đặc thù “nước ta là nước dân chủ”, dân là chủ và dân làm chủ. Một nét quản lý đậm chất văn hoá phải là Đảng, Chính phủ là đày tớ, là công bộc của dân. Do vậy, chính trị thất bại tức là không được lòng dân, mất lòng tin của dân là mất tất cả. Một khi người nắm quyền, thay mặt Nhân dân lãnh đạo đất nước mà không còn sự tín nhiệm của Nhân dân nữa thì nên từ chức.
Vì thế, nâng cao văn hoá lãnh đạo là Đảng phải có sự lựa chọn sáng suốt, có tầm nhìn, trí tuệ và bản lĩnh văn hoá giữa việc lấy cái căn bản quy tụ của lòng dân và lợi ích lâu dài thay vì lợi ích và thành tích trước mắt mang mầm bệnh. Văn hoá lãnh đạo là phải “sao cho được lòng dân”.
Năm là, văn hoá lãnh đạo thể hiện trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị - xã hội.
Nói đến Đảng cầm quyền là phải nói tới quản lý của Nhà nước. Trong văn hoá chính trị thì văn hoá lãnh đạo và văn hoá quản lý thâm nhập vào nhau. Văn hoá quản lý là một thước đo của văn hoá lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trên cơ sở nhận thức Nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng, văn hoá của Đảng cầm quyền là Đảng phải tôn trọng chính quyền, tôn trọng Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Những quan điểm về văn hóa lãnh đạo có giá trị khoa học và nhân văn sâu sắc, cùng với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức, vận dụng, bổ sung và phát triển quan điểm về văn hóa lãnh đạo cho phù hợp với thực tiễn cách mạng hiện nay. Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra một số nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ:
“Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”4.
Sáu là, quan điểm của Đảng về văn hóa lãnh đạo là vũ khí lý luận sắc bén đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch trong công tác xây dựng Đảng.
Trong suốt 94 năm cách mạng, cùng với xây dựng văn hóa lãnh đạo, Đảng ta luôn kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa cơ hội đối với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và Nhân dân lao động; bảo vệ, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ phong trào cách mạng: “Kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết về “Tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Quan điểm về văn hóa lãnh đạo của Đảng là cơ sở để chúng ta tiếp tục khẳng định tính chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vạch trần các quan điểm sai trái, thù địch về văn hóa; chống chiến tranh tâm lý gây chia rẽ, nghi ngờ trong nội bộ Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Để từ đó có phương pháp, cách thức đấu tranh phù hợp; có chiến lược rõ ràng, sách lược khôn khéo trong đấu tranh, vừa cô lập các quan điểm sai trái, bóc trần các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, vừa trang bị tri thức lý luận và thực tiễn; đề cao phương pháp giáo dục, thuyết phục; đấu tranh, phê phán có lý, có tình làm chuyển biến căn bản những nhận thức sai lầm, lệch lạc; tích cực, chủ động phối kết hợp chặt chẽ mọi lực lượng tạo lập thế trận áp đảo, cùng chiếm lĩnh và làm chủ thế trận đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; phát hiện kịp thời, kiên quyết ngăn chặn, đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm, tư tưởng sai trái và thù địch về văn hóa.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả vận dụng quan điểm của Đảng ta về văn hóa lãnh đạo, đấu tranh với mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của văn hóa trên lĩnh vực chính trị; phủ nhận nền tảng tư tưởng cốt lõi của văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa; phủ nhận vai trò của văn hóa lãnh đạo trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta cần quán triệt hơn nữa những giá trị có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện hơn hệ thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới, trực tiếp là công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Kế thừa những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Đảng ta đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được đề cập một cách thường xuyên và toàn diện. Qua các kỳ đại hội gần đây, Đảng ta đều có những điểm nhấn quan trọng: Đại hội X tập trung vào “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội XI lấy “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” làm một trong những thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội, Đại hội XII nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” ở ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và sự sống còn của chế độ. Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, triển khai và thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả của Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bổ sung thêm nội dung về đạo đức trong công tác xây dựng Đảng. Đó là cơ sở để “Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới”. Thực hiện theo Hiến pháp “Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Xây dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; chỉ khi nào Nhà nước mạnh, liêm chính, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thì mới đưa được đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, mà Đảng muốn vững mạnh và thể hiện được vai trò lãnh đạo toàn diện của mình thì Nhà nước cũng phải được xây dựng vững mạnh, liêm chính, vì Nhà nước chính là người thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đưa các quyết sách của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch cụ thể, sát hợp với thực tiễn phát triển đất nước.
Cũng như vậy, Đảng và Nhà nước chỉ vững mạnh, hoàn thành được nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy hết vai trò, trách nhiệm, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hành động thực tế của Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Thứ hai, định hướng đấu tranh những biểu hiện suy thoái về văn hóa lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên về văn hóa lãnh đạo.
Văn hóa lãnh đạo là cơ sở chính trị quan trọng trong chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định trong công cuộc xây dựng và phát triển Đảng, Nhà nước và xã hội. Văn hóa lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và tinh thần đồng lòng với Đảng. Văn hóa lãnh đạo giúp đảm bảo sự đoàn kết, đồng thuận và hiệu quả trong công tác lãnh đạo của đội ngũ cán bộ.
Văn hóa lãnh đạo là cơ sở chính trị quan trọng trong xây dựng đội ngũ đảng viên. Đảng viên là nhân tố quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển Đảng. Văn hóa lãnh đạo giúp hình thành và phát triển đảng viên có ý thức, trách nhiệm, tinh thần đồng lòng và đoàn kết với Đảng. Văn hóa lãnh đạo đảm bảo sự tuân thủ và thực hiện đúng đắn các quy định, quy chế của Đảng, đồng thời tạo điều kiện để đảng viên thể hiện và phát huy vai trò của mình trong công tác xây dựng Đảng và xã hội.
Văn hóa lãnh đạo còn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Văn hóa lãnh đạo giúp đảm bảo sự đồng thuận, đoàn kết và hiệu quả trong việc thực hiện các quyết sách, chính sách và nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Văn hóa lãnh đạo cũng đảm bảo tính đồng nhất, đồng lòng và đoàn kết trong Đảng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Là cơ sở chính trị để đấu tranh chống suy thoái, tham nhũng, tự diễn biến tự chuyển hóa của cán bộ, đảng viên. Quá trình nhận thức, nhận diện những biểu hiện suy thoái, tự phê bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái, biểu hiện suy thoái nhằm cảnh tỉnh, răn đe, cảnh báo, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, nhất là từng bước đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù người đó là ai, được Nhân dân đồng tình ủng hộ mạnh mẽ.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện tốt quy định số 41-QĐ/TW “Về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ”. Đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Đảng, Nhà nước ta đang quyết tâm xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... Quy định đã “mở đường” cho “Thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ khả năng, uy tín”5, trong Đảng, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa lãnh đạo là vấn đề có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, giữ vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống lý luận, quan điểm của Đảng về văn hóa chính trị. Xây dựng văn hóa lãnh đạo theo quan điểm của Đảng có giá trị rất lớn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trực tiếp là công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 622.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr. 50.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.333.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, ngày 22/10/2018, Hà Nội, 2018.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Quy định số 144 - QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới, ngày 9/5/2024, Hà Nội, 2024.
* NGUYỄN THỊ TUYẾT - Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
** NGUYỄN RẠNG ĐÔNG - Thạc sĩ, Trường Sĩ quan Pháo binh, Bộ Quốc phòng