|
Bác Hồ thăm gia đình công nhân nhà máy Cao su Sao Vàng. Ảnh tư liệu.
|
Được gặp Người là ước vọng, niềm vinh dự lớn lao của mọi người Việt Nam yêu nước. Tôi là một trong số những người đó.
Lần đầu, tôi cùng các thầy giáo, cô giáo và sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội được đón Người ngay chính tại trường mình. Hôm đó là ngày mồng một Tết Mậu Tuất (tức ngày 2/2/1958). Chuyến thăm không báo trước, không “tiền hô, hậu ủng” của Bác giống như một người ông, người cha đến “xông nhà” và chúc Tết con cháu đúng ngày đầu Xuân làm cho chúng tôi cũng như lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên và sinh viên khá bất ngờ và lúng túng.
Nơi Bác đến đầu tiên là khu ở của sinh viên. Hầu hết sinh viên ở lại ăn Tết tại trường là con em đồng bào miền Nam tập kết. Do đêm trước đón Giao thừa quá khuya và thao thức nhớ nhà, nên ở nhiều phòng, sinh viên vẫn đang say giấc nồng. Tiếp đến, Bác xuống kiểm tra bếp ăn tập thể. May thay, bếp núc gọn gàng, bữa cơm đầu năm đã được chuẩn bị khá tươm tất. Bác khen tinh thần phục vụ của anh chị em cấp dưỡng.
Tin Bác đến thăm lan ra toàn trường. Mọi người đổ xô ra đón và quây quần quanh Bác. Sau mấy lời chúc Tết, Bác căn dặn chúng tôi:
“Giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất; lý thuyết phải gắn liền với thực tiễn; học phải đi đôi với hành; nhà trường phải gắn liền với xã hội”.
Lời căn dặn đó của Bác đã trở thành phương châm giáo dục của Nhà nước ta hiện nay. Bác cũng không quên nhắc nhở cán bộ, sinh viên cần gọn gàng, ngăn nắp. Đặc biệt, đối với sinh viên, con em đồng bào miền Nam, Bác nhấn mạnh: Phải học tập tốt hơn, rèn luyện tốt hơn và sẵn sàng trở lại miền Nam khi Tổ quốc cần.
Lần thứ hai, trường chúng tôi vinh dự được đón Bác là ngày 17/6/1960 khi Bác cùng Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Anbani đến thăm trường.
Điều làm tất cả chúng tôi bất ngờ là phong cách dung dị và dân dã của một vị lãnh tụ tối cao. Tranh thủ lúc Đoàn vào thăm phòng triển lãm của trường, Bác đã dành cho thầy trò chúng tôi những giây phút đầm ấm quanh Người. Bác ngồi bệt ngay tại bậc lên xuống nhà triển lãm và vẫy gọi chúng tôi đến quây quần quanh Người. Bác rất vui khi biết qua hai năm kể từ khi Bác đến thăm lần đầu, nhà trường đã có nhiều tiến bộ. Bác khen trường đã bồi dưỡng, đưa được nhiều công nhân, nông dân, con em các dân tộc thiểu số và chiến sĩ quân đội nhân dân vào học tại trường. Nhưng Bác lưu ý: Số các cháu gái vào Đại học Bách khoa còn ít. Các chú phụ trách cần phải chú ý hơn đến tình hình này.
Bác căn dặn chúng tôi: “Học để phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Thầy trò cần thi đua dạy tốt, học tốt”. Cuộc vận động “Dạy tốt, học tốt” trong ngành giáo dục của chúng ta bắt đầu từ đó.
Lần thứ ba Bác đến thăm trường là ngày 3/2/1962 cùng Đoàn đại biểu Nhà nước Lào do Hoàng thân Xuvanna Phuma dẫn đầu. Kỷ niệm sâu sắc của tôi về Bác trong chuyến thăm này là: Khi Đoàn và Bác vào Hội trường, lên Đoàn Chủ tịch, tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm, muôn năm” không ngớt và kéo dài, mặc dầu Bác ra hiệu nhiều lần cho mọi người ngồi xuống. Khi mọi người đã yên vị, Bác nói vui: “Các cô, các chú, các cháu dạy tốt - học tốt, công tác tốt thì hãy hô: Bác Hồ muôn năm… Yêu Bác, quý Bác, các cô, các chú, các cháu hãy thi đua “dạy tốt, học tốt, lao động tốt!”.
Song, những kỷ niệm sâu sắc nhất mà tôi muốn kể trong bài viết này chính là những lần được gặp Bác tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng ta diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960 tại Thủ đô Hà Nội.
Hồi đó, tôi là cán bộ giảng dạy của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Một hôm, vào cuối tháng 5, tôi được lãnh đạo nhà trường gọi lên thông báo phải bàn giao ngay công việc đang làm, được nghỉ phép một tuần để sau đó sẽ nhận công tác đặc biệt.
Hết thời gian nghỉ phép, tôi nhận quyết định và đến đại điểm theo giấy triệu tập. Đó là khu nhà số 8 và số 10 đường Chu Văn An hiện nay.
Qua ít ngày ổn định tổ chức và học tập nội quy, mọi người chúng tôi mới biết là mình được triệu tập đi phục vụ Đại hội III của Đảng. Chúng tôi được chuyển về trường Tuyên huấn Trung ương để học tập chính trị và bắt tay vào việc. Và cũng chính từ ngày chuyển về đây, mọi người bắt đầu thực hiện lệnh cấm trại “nội bất xuất, ngoại bất nhập”.
Các đồng chí lãnh đạo lần lượt đến giới thiệu cho chúng tôi về tình hình thế giới và trong nước. Chúng tôi sáng lên lớp, chiều thảo luận, tối viết thu hoạch.
Bỗng một hôm Bác Hồ đến thăm. Đi cùng Bác là anh Lê Văn Lương - Trưởng ban tổ chức Đại hội III. Vẫn bộ áo nâu xồng quen thuộc và đôi dép “Bình Trị Thiên khói lửa”, Bác hòa vào đám đông con cháu giữa tiếng hoan hô và vỗ tay không ngớt. Bác khen chúng tôi học tập tốt. Bác mong chúng tôi phục vụ Đại hội thật tốt vì Đại hội này là Đại hội của một nửa đất nước được giải phóng với số đại biểu cả trong nước và nước ngoài đông nhất kể từ ngày thành lập đến nay. Đại hội sẽ tổng kết 30 năm xây dựng Đảng và quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước là: Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.
Bác nhắc nhở anh chị em phục vụ các đại biểu nói chung, đại biểu khách nước ngoài nói riêng phải hết sức chu đáo, trọng thị nhưng thân tình. Bác nói: Mới ra khỏi chiến tranh, đất nước ta còn nghèo, nhưng là nghèo về cơ sở vật chất, chứ không nghèo về tình cảm. Ta lại chưa quen đón khách quốc tế. Lấy cái giầu về tình cảm bù cho cái nghèo về vật chất và thiếu kinh nghiệm về lễ tân, Bác chắc chắn bạn sẽ thông cảm với ta.
Học chính trị xong, tôi được Ban tổ chức quyết định cùng anh Đậu Ngọc Xuân và anh Trịnh Ngọc Thái1 phụ trách bộ phận phiên dịch các Văn kiện Đại hội. Anh Xuân phụ trách phần chuyên môn, anh Thái lo khâu tổ chức, còn tôi nhỏ tuổi hơn lo khâu hậu cần và quan hệ.
Vì lo khâu hậu cần và quan hệ, nên tôi thường được họp với Ban tổ chức Đại hội. Và vì vậy có nhiều dịp được gặp Bác Hồ.
Bộ phận phiên dịch chúng tôi được chia thành 5 tổ: tổ dịch tiếng Pháp, tổ dịch tiếng Anh, tổ dịch tiếng Trung, tổ dịch tiếng Nga, tổ dịch tiếng Tây Ban Nha. Trừ 2 tổ tiếng Pháp, tiếng Anh gồm những chuyên gia đầu đàn như giáo sư Phạm Huy Thông, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Văn Chương,... còn các tổ khác đa phần là lớp trẻ, thâm niên trong nghề chưa cao. Vì vậy, Trung ương đã mời và bổ sung cho những tổ này các chuyên gia phiên dịch người Nga, Trung Quốc, Cu Ba thạo tiếng Việt.
Vất vả nhất đối với đội ngũ phiên dịch Văn kiện là những ngày cận kề Đại hội và trong thời gian tiến hành Đại hội. Vì lúc đó, các đoàn đại biểu nước ngoài mới đến, mới có bài để dịch. Nhiều đoàn lại không đưa ngay, chờ nghe diễn văn khai mạc của chủ nhà, nghe tham luận của đảng bạn mới hoàn chỉnh bài phát biểu của Đoàn mình và thường đưa cho bộ phận phiên dịch vào giờ chót.
Thông cảm với những khó khăn, vất vả của phiên dịch, đêm mồng 6 tháng 9 - một ngày sau hôm Khai mạc Đại hội, Bác bất chợt đến thăm bộ phận chúng tôi. Cùng đi có các anh Lê Văn Lương, Ung Văn Khiêm, Tố Hữu. Hôm đó, Bác rất vui. Câu đầu tiên Bác khen các bản dịch chính xác, diễn đạt sát ý, văn phong tốt. Bác thưởng cho mỗi người một điếu thuốc lá thơm. Bỗng Bác quay sang phía giáo sư Phạm Huy Thông và nói vui: “Đúng, chú này mũi nhòm mồm thật” báo cáo viết: Trong Kế hoạch 5 năm 1961 - 1965 sẽ xây dựng 400 nhà máy, xí nghiệp thì chú lại dịch xây dựng 400 nhà bếp (tiếng Pháp usine là nhà máy do đánh máy nhầm thành cuisine là nhà bếp). Mọi người cười vui.
Bác lại hỏi anh Lương:
- Thế tiêu chuẩn ăn hàng ngày của các cô, chú phiên dịch là bao nhiêu?
- Thưa Bác là 5 kg gạo2.
- Còn đại biểu Đại hội?
- Thưa Bác là 10 kg.
Bác góp ý với anh Lương:
- Chính sách của chú như vậy là chưa xã hội chủ nghĩa, chưa thực hiện đúng nguyên tắc: làm theo năng lực hưởng theo lao động. Các đại biểu ngày họp đêm nghỉ, còn các cô, các chú bộ phận phiên dịch văn kiện phải làm ngày, làm đêm mà chỉ được hưởng bằng nửa tiêu chuẩn đại biểu là không công bằng. Bác đề nghị chú cần sửa ngay.
Thế là ngày hôm sau, ba bữa chính của bộ phận phiên dịch được “nâng cấp”. Ngoài ba bữa chính, còn có thêm suất “bồi dưỡng ca đêm”.
Một bài học sâu sắc, một kỷ niệm nhớ đời về tôn trọng phụ nữ mãi mãi in đậm trong tôi. Đó là việc Bác chụp ảnh đối với các đoàn đại biểu. Để tranh thủ thời gian, các đoàn cần tập hợp đội hình trước, khi Bác đến là có thể chụp được ngay. Tôi được phân công sắp xếp khối phiên dịch. Khi bố trí, tôi đã có ý định dành một chỗ khá rộng để khi Bác đến mình có thể được đứng cạnh Bác. Nhưng sự thực lại không theo ý muốn. Khi đến, Bác nhắc tôi và một đồng chí khác lùi lại hàng sau và mời hai cô phiên dịch người Nga đứng cạnh Bác.
Đến đoàn đại biểu các dân tộc chụp ảnh với Bác, do nhiều đồng chí lần đầu được gặp Bác, nên anh em bỏ hàng ngũ chạy đến vây quanh Bác. Anh Chu Văn Tấn – trưởng đoàn lúng túng. Anh Lương gọi tôi đến giúp một tay. Ổn định trật tự xong, tôi định chạy đi thì được Bác gọi lại và nhắc anh Tấn nhích lại gần Bác để tôi đứng cạnh anh.
Chụp xong, Bác hỏi tôi:
- Cháu dân tộc nào?
- Thưa Bác, cháu dân tộc Kinh.
- Bác tưởng cháu là dân tộc thiểu số. Sao da cháu nâu vậy?
- Thưa Bác mấy hôm nay cháu phải chạy nhiều việc nên da bắt nắng.
- Thế cháu công tác ở cơ quan nào? Đã có gia đình chưa?
- Thưa Bác, cháu dạy ở trường Đại học Bách khoa và đang có người yêu.
Bác rất vui và quay sang bảo anh Lương cho tôi 2 giấy mời để tối hôm đó đưa người yêu đi dự Dạ hội của nhân dân Thủ đô chào mừng thành công Đại hội III của Đảng.
61 năm đã trôi qua, 52 năm Bác đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, những điều Bác căn dặn và tình cảm Bác dành riêng cho tôi, cho vợ chồng tôi không bao giờ tôi quên và xin nguyện cùng Người: Ra sức học tập, làm theo tư tưởng đạo đức của Người để mãi mãi là người công dân tốt, người đảng viên tốt.
Chú thích:
1. Sau này anh Đậu Ngọc Xuân là Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; anh Trịnh Ngọc Thái là Phó Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Đại sứ của nước ta tại Pháp.
2. Thời đó tiêu chuẩn tính bằng gạo - 1 kg bằng 4 hào.
Nguyễn Túc
Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTW MTTQ Việt Nam