MỐI QUAN TÂM HÀNG ĐẦU CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Phát huy truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc; thực hiện những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào (...). Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(1), 77 năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chế độ chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Khởi đầu từ Sắc lệnh số 20/SL, ngày 16/2/1947 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”, với ba đối tượng và hai chính sách đầu tiên, đến nay, hệ thống chính sách ưu đãi người có công từng bước được hoàn thiện, đối tượng ưu đãi được mở rộng lên 12 đối tượng, cơ bản đã bao phủ được hết các đối tượng người có công với cách mạng.
Qua 38 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều quyết sách quan trọng, luôn chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người có công; xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của toàn hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán và quyết tâm chính trị: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”(2). Đồng thời, “bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”(3).
Để tiếp tục cụ thể hóa quyết tâm chính trị đặt ra của Đại hội XIII, Hội nghị Trung ương 8 đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Trong đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. “Bảo đảm 100% người có công và gia đình người có công với cách mạng được chăm lo toàn diện cả vật chất và tinh thần, có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú”(4).
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG
Nhìn chung, chính sách ưu đãi người có công ở nước ta đã có sự đồng bộ, nhất quán từ quan điểm, chủ trương của Đảng cho đến hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước. Những kết quả đạt được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tính đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, có trên 1,2 triệu liệt sĩ, gần 140.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, trên 800.000 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, gần 185.000 bệnh binh, trên 320.000 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Hiện nay, cả nước có trên 1,2 triệu người có công được hưởng trợ cấp hằng tháng và hơn 280.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng(5).
Thứ hai, với vai trò chủ đạo, Nhà nước đã bảo đảm ngân sách để chi trả trợ cấp ưu đãi đối với người có công. Nguồn kinh phí đảm bảo thực hiện ưu đãi xã hội hằng năm được điều chỉnh căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng đáp ứng ngân sách. Đời sống người có công không ngừng được nâng lên, mức chuẩn trợ cấp tăng từ 1.318.000 đồng (năm 2015) lên 1.624.000 đồng (năm 2020). Đến nay, cả nước có 98,6% hộ gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; giải quyết dứt điểm, không còn hộ người có công thuộc diện hộ nghèo.
Ngân sách nhà nước chi ưu đãi người có công đều tăng qua các năm. Tổng kinh phí giai đoạn 2012-2022 là khoảng 357.373 tỷ đồng. Công tác xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia vào các hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh, nhờ đó tổng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa giai đoạn 2012-2021 cả nước đã huy động được gần 7.370 tỷ đồng, trong đó quỹ Trung ương đạt gần 45 tỷ đồng, quỹ địa phương hơn 7.320 tỷ đồng(6).
Thứ ba, cùng với bảo đảm chế độ trợ cấp ưu đãi thường xuyên, nhiều chính sách hỗ trợ khác cũng được ban hành và thực hiện, như: chính sách ưu đãi về nhà ở (về cơ bản chúng ta đã hoàn thành hỗ trợ dứt điểm nhà ở cho 393.707 hộ người có công trên cả nước, vượt mục tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đề ra); chính sách ưu đãi trong giáo dục, đào tạo đối với con của người có công; chăm sóc sức khoẻ; ưu tiên vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm để phát triển sản xuất; hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh của thương, bệnh binh và người có công... tạo điều kiện cho con em họ có việc làm, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống.
Hệ thống cơ sở sự nghiệp phục vụ thương binh, thân nhân liệt sĩ và người có công (các cơ sở nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh nặn, điều dưỡng luân phiên, các trung tâm chỉnh hình...) đã có nhiều hoạt động hiệu quả. Các cấp, ngành, địa phương tích cực giải quyết những phát sinh và tồn đọng, như: xác nhận, công nhận người hưởng chính sách ưu đãi, tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin bằng phương pháp giám định ADN...
Thứ tư, những năm gần đây, các chương trình: Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, “Nhà tình nghĩa”, “Vườn cây tình nghĩa”, “Sổ tiết kiệm tình nghĩa”; chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng... đã ngày càng lan tỏa sâu rộng, góp phần ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với thương, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và người có công. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã tiếp nhận sự ủng hộ gần 5.600 tỉ đồng, xây mới gần 39.000 căn nhà, sửa chữa hơn 24.650 căn nhà với tổng số tiền hơn 2.265 tỉ đồng. Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, đã hỗ trợ 393.707 hộ gia đình người có công khó khăn về nhà ở với tổng kinh phí 10.654 tỉ đồng, tặng 61.654 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá gần 104 tỉ đồng. Đồng thời, đã xóa nghèo được trên 16.000 hộ người có công(7). Những việc làm trách nhiệm và nghĩa tình đó đã thực sự trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, góp phần quan trọng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao tinh thần yêu nước, khơi dậy và bồi đắp những giá trị nhân văn sâu sắc của dân tộc.
Thứ năm, trong giai đoạn 2017 - 2022, việc tập trung giải quyết hồ sơ người có công còn tồn đọng qua các thời kỳ được coi là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Trên cơ sở báo cáo và được Chính phủ đồng ý, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 408/QĐ-LĐTBXH, ngày 20/3/2017 về Quy trình giải quyết hồ sơ tồn đọng. Đây là bước đột phá trong công tác giải quyết hồ sơ tồn đọng người có công tại các tỉnh, thành phố. Kết quả, đã rà soát, giải quyết 5.900 hồ sơ tồn đọng trên cả nước (trong đó trình Thủ tướng Chính phủ công nhận và cấp Bằng Tổ quốc ghi công đối với 2.204 liệt sĩ; trên 2.500 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; còn lại là những hồ sơ không đủ điều kiện đã được kết luận và giải thích thấu tình, đạt lý). Hiện nay, theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, về cơ bản không còn hoặc còn rất ít hồ sơ tồn đọng, chủ yếu là các hồ sơ xem xét theo tiêu chí được mở rộng sau này(8)…
Đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững.
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, BAN HÀNH VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LỆNH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách ưu đãi người có công theo quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết 42-NQ/TW, cần quan tâm, thực hiện tốt những giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Tuyên truyền nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ, bảo đảm và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng người có công với cách mạng. Theo đó, nội dung tuyên truyền cần bám sát chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giúp đội ngũ cán bộ và người dân nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia thực hiện chính sách này. Kịp thời biểu dương các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện chính sách. Chú trọng tuyên truyền “động viên, hỗ trợ và khuyến khích nỗ lực vươn lên của các đối tượng thụ hưởng, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước”; nhấn mạnh vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp trong thực hiện chính sách xã hội.
Công tác tuyên truyền cần kiên trì, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tổ chức thực hiện, đa dạng hóa các phương pháp, cách thức tuyên truyền; cần tiến hành thường xuyên, liên tục với những đổi mới về nội dung và hình thức thể hiện; chú trọng tuyên truyền lồng ghép - gắn với chủ đề “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” trong các hoạt động văn hóa - xã hội...
Hai là, nâng cao hơn nữa năng lực quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công trong bối cảnh chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ; phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương trong triển khai thực hiện những vấn đề liên quan. Chính quyền các cấp chú trọng giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công còn tồn đọng, bảo đảm chặt chẽ, thấu lý, đạt tình. Đẩy mạnh cải cách hành chính và công tác phối hợp thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, trách nhiệm của những người làm công tác chính sách đối với người có công…
Ba là, tăng cường vận động, khuyến khích các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tích cực tham gia các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”...
Thông qua các hoạt động tưởng nhớ, tri ân, quan tâm đến người có công và gia đình chính sách để khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, ý thức trách nhiệm cá nhân với lịch sử dân tộc và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc. Tiếp tục tục đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá công tác chăm sóc người có công; phát huy sức mạnh, vai trò tổng hợp của Nhà nước, cộng đồng và cá nhân đối tượng chính sách tự vươn lên. Vận động sự quan tâm hưởng ứng của các bộ, ngành, đoàn thể, doanh nghiệp và nhân dân trong cả nước hưởng ứng phong trào xây dựng nhà tình nghĩa; vườn cây tình nghĩa; sổ tiết kiệm tình nghĩa; chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi; phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng...
Bốn là, tiếp tục nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi theo hướng “phải là mức cao nhất trong các chính sách xã hội”; ưu tiên trong chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, giáo dục - đào tạo, việc làm, sản xuất và tạo thuận lợi cho người có công và thân nhân tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Bảo đảm người có công và gia đình người có công phải có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Cơ bản hoàn thành việc giải quyết tồn đọng trong chính sách người có công, nhất là tìm kiếm, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ; xây dựng, tu bổ, tôn tạo mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, các công trình ghi công liệt sĩ(9).
Tiếp tục nghiên cứu, ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và các văn bản hướng dẫn phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng cường rà soát, giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công với cách mạng. Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các vi phạm trong thực hiện luật pháp, chính sách đối với người có công với cách mạng...
Năm là, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách ở mỗi địa phương, cơ sở.
Cơ quan lao động - thương binh và xã hội vừa làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, vừa chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện chính sách. Do đó, chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng phụ thuộc rất lớn vào năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức này. Vì vậy, cùng với phát huy tốt vai trò, trách nhiệm gắn với tình hình thực tiễn của mỗi địa phương, cơ quan lao động - thương binh và xã hội cần phối hợp tích cực, hiệu quả với hệ thống tuyên giáo để làm tốt hơn nữa công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan chức năng khác nắm bắt tình hình, đánh giá đúng nguồn lực ở địa phương, từ đó, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia với phương châm: Nhà nước, nhân dân và những người được hưởng chính sách ưu đãi cùng phấn đấu; huy động mọi nguồn lực để chính sách ưu đãi người có công được thực hiện ngày càng đầy đủ, tốt hơn.
Cơ quan quân sự địa phương tích cực phối hợp với cơ quan lao động - thương binh và xã hội đề xuất, ban hành, triển khai thực hiện các văn bản quy định về giải quyết chế độ, chính sách đối với những người bị thương, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, nhất là đối với các đối tượng chính sách bị thất lạc hết giấy tờ hoặc không còn lưu giữ đầy đủ. Phối hợp, tiến hành tích cực, hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác minh tên, tuổi, quê quán và tổ chức bàn giao về địa phương, gia đình theo Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 14/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 80/2022/TT-BQP ngày 11//11/2022 của Bộ Quốc phòng.
Các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội phát huy tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, vận động, xã hội hóa các nguồn lực thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.
Sáu là, cán bộ và cơ quan làm công tác chính sách luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt bổn phận, trách nhiệm, tình cảm đối với những người có công; luôn trau dồi, nâng cao trình độ, phương pháp, tác phong làm việc khoa học, trách nhiệm; chu đáo, chân thành, thận trọng, tận tụy, khách quan, thấu tình đạt lý; tích cực nghiên cứu, nắm vững quan điểm, nguyên tắc, chế độ… để vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo, hiệu quả./.
Tiếp tục nghiên cứu, ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và các văn bản hướng dẫn phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng cường rà soát, giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công với cách mạng. Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các vi phạm trong thực hiện luật pháp, chính sách đối với người có công với cách mạng... |
TS. ĐỖ VĂN QUÂN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. NGUYỄN HỮU TÀI
Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Tuyên giáo
____________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.204.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.148-149, 270.
(4) (9) Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
(5) Nguyễn Huy Phòng: Thực hiện tốt chính sách với người có công với cách mạng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử, 2023.
(6) (7) Nguyễn Bá Hoan: Chính sách người có công trong chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ phát triển mới, Tạp chí Cộng sản chuyên đề, số 7/2023, tr.93, 94.
(8) Nguyễn Bá Hoan: Chính sách đối với người có công luôn được quan tâm nhất quán, thường xuyên, Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử, 2022.