Phát triển văn hóa hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội

Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là động lực đưa đất nước vượt qua thách thức, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở làm rõ nhận thức của Đảng về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, bài viết khái quát thực trạng, đề xuất giải pháp phát triển văn hóa hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời gian tới.


Ảnh minh họa: vietnamhoinhap.vn

1. Mở đầu

Văn hóa là “hồn cốt” của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội và là sức mạnh nội sinh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức đúng đắn vị trí và tầm quan trọng của văn hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa, gắn với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là định hướng quan trọng của quá trình xây dựng CNXH. Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra những thách thức, yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới tư duy, hành động quyết liệt để tăng cường “sức mạnh mềm” của văn hóa, làm “bệ đỡ” hướng tới phát triển nhanh và bền vững đất nước.

2. Nhận thức mới của Đảng về phát triển văn hóa thời kỳ đổi mới

Ngay từ sớm, Đảng ta xác định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(1). Trong thời kỳ đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng văn hóa gắn liền với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời kỳ đổi mới không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện.

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu sự mở đầu đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới chính sách phát triển văn hóa. Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, Đảng tập trung xây dựng “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”(2) trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) được Đại hội VII thông qua đã nêu rõ quan điểm xây dựng văn hóa gắn liền với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường(3). Hội nghị Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) khẳng định: “Văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu trong xây dựng xã hội mới”(4); “Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc(5).

Quan điểm của Đảng tại Đại hội VI và Đại hội VII cho thấy, Đảng ưu tiên tập trung phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Văn hóa được quan tâm nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm.

Đại hội VIII (năm 1996), nhận thức của Đảng về phát triển văn hóa được kế thừa, bổ sung, phát triển lên tầm cao mới với quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững… Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(6). Điểm mới trong chủ trương của Đảng tại Đại hội VIII được thể hiện trong Chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội với mục tiêu: “Giải quyết việc làm, phát triển toàn diện các mặt hoạt động về văn hóa, thông tin… Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”(7).

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) khẳng định: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(8); “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”(9). Những điểm mới về văn hóa của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển toàn diện trong lý luận của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa, thể hiện tầm nhìn chiến lược về phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại.

Đại hội IX của Đảng (năm 2001) tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về tính thống nhất giữa phát triển văn hóa với kinh tế, xã hội. Đại hội khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(10). Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đã chỉ ra điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững đất nước trên cơ sở phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.

Đại hội X của Đảng (năm 2006) thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của định hướng XHCN. Đại hội X nhấn mạnh: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(11).

Đại hội XI (năm 2011), nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của văn hóa, tiếp cận bản chất đích thực, vốn có của văn hóa là từ con người, vì con người. Đại hội XI nhất quán quan điểm: “Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(12).

Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là động lực đưa đất nước vượt qua thách thức, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nếu như các văn kiện trước đặt văn hóa bên cạnh hoặc bên trong của sự phát triển, là yếu tố nội sinh, là “động lực”, “mục tiêu” của sự phát triển, thì đến Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Đảng nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(13). Từ đó, Đảng xác định rõ vai trò của từng trụ cột, định hướng có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa, tương xứng giữa văn hóa với kinh tế, xã hội, góp phần giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền dân tộc.

Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục hoàn thiện sâu sắc hơn quan điểm phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, trong đó chú trọng phát huy yếu tố con người. Cùng với nhiệm vụ “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”(14), Đại hội XII xác định văn hóa là “chìa khóa” mở ra cơ hội cạnh tranh công bằng, lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, cần “gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”(15).

Nhất quán quan điểm, chủ trương về văn hóa, đồng thời Đại hội XIII (năm 2021) lần đầu tiên đưa ra yêu cầu phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa, “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: …giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(16). Đại hội XIII đặc biệt nhấn mạnh vai trò “động lực” của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế”(17).

Trải qua các kỳ đại hội, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa và quan điểm phát triển văn hóa hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Quan điểm, chủ trương của Đảng được tổ chức thực hiện hiệu quả trong thực tiễn phát triển văn hóa gắn với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

3. Thực trạng phát triển văn hóa hài hòa với tăng tưởng kinh tế và tiến bộ xã hội

Trên phương diện lý luận, nhận thức của Đảng về phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng sâu sắc, đa chiều và hoàn thiện, góp phần tạo nên sự thống nhất về tư tưởng và hành động, bảo đảm giữ vững định hướng chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và con người Việt Nam. Vai trò của văn hóa tiếp tục được khẳng định và đề cao trong các mối quan hệ xã hội, các lĩnh vực hoạt động, nhất là trong xây dựng con người mới XHCN.

Trên thực tiễn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thể chế, cơ chế, chính sách về văn hóa được hoàn thiện, tạo khung pháp lý thuận lợi thúc đẩy văn hóa phát triển mạnh mẽ. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được đổi mới, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, văn nghệ được tăng cường về số lượng và chất lượng. Môi trường văn hóa được quan tâm xây dựng và củng cố, ngày càng gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Phong trào, hoạt động văn hóa được mở rộng và có chiều sâu, mang lại hiệu quả tích cực, góp phần giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Quyền tự do sáng tạo văn hóa, văn nghệ được tôn trọng. Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, sinh hoạt văn hóa tâm linh được tạo điều kiện thuận lợi. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc được chú trọng đầu tư, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Thành tựu đạt được trên lĩnh vực văn hóa đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khép kín, Việt Nam đã bứt phá vươn lên trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao, giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 6%/năm và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới(18). Năm 2022, Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trong ASEAN với quy mô GDP theo sức mua tương đương khoảng 1.321 tỷ USD(19). Năm 2023, GDP tăng 5,05%, quy mô nền kinh tế khoảng 430 tỷ USD, cao hơn nhiều nước trong khu vực và thế giới(20).

Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam vươn lên trở thành quốc gia đang phát triển với thu nhập trung bình. Các chỉ tiêu về giảm thiểu bất bình đẳng giới, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo được triển khai thực hiện hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống dưới 3% (năm 2020), bình quân giai đoạn 2016-2020, giảm trên 1,4%/năm(21). Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, từ mức 0,687 (năm 2000) lên 0,703 (năm 2021), giữ vị trí 115/191 quốc gia(22), Việt Nam được xếp vào nhóm phát triển con người trung bình cao của thế giới.

Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi giảm từ 6,9% (năm 2001) xuống còn 3,22% (năm 2021)(23). Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh, từ 46,1% (năm 2008) lên 93,3% (năm 2023)(24). Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Chính sách đối với người có công được mở rộng đối tượng thụ hưởng, mức trợ cấp hằng năm được nâng lên. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân được tăng cường. Các hoạt động văn hóa, thể thao, văn nghệ được đầu tư phát triển, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Quy mô, chất lượng giáo dục được nâng cao.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa có lúc chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thậm chí một số địa phương còn xem văn hóa đơn thuần là phong trào bề nổi. Các quy định, chuẩn mực văn hóa còn nặng về hình thức, chưa có chiều sâu, chưa có trọng điểm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội còn lúng túng; các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật tầm cỡ còn thiếu; còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa; hiệu quả đầu tư phát triển văn hóa chưa cao; hạn chế về nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực văn hóa; hợp tác quốc tế về văn hóa chưa theo kịp yêu cầu phát triển và hội nhập.

4. Giải pháp phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới, để phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tệ nạn xã hội, duy trì ổn định chính trị; đồng thời, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc và sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, coi trọng giáo dục những giá trị truyền thống, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là đối với thế hệ trẻ; đẩy mạnh giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng luật pháp, tự giác gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Không ngừng tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt, nỗ lực xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần nghiên cứu, làm rõ hơn nữa vai trò, nội dung, bản chất của văn hóa trong đời sống kinh tế, xã hội. Tiếp tục cụ thể hóa chủ trương phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, bổ sung, sửa đổi và không ngừng hoàn thiện quan điểm, chủ trương về văn hóa cho phù hợp với thực tiễn đất nước; đẩy mạnh phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực để phát triển bền vững đất nước. Đồng thời, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong phát triển văn hóa phù hợp với tình hình thực tế đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa; tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa, tăng cường nguồn lực đầu tư cho văn hóa

Để hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển văn hóa, trước hết Việt Nam cần đổi mới tư duy quản lý văn hóa, thực hiện phân cấp, phân quyền cho các cơ quan nhà nước quản lý về văn hóa để các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, tập trung cải cách, hoàn thiện thể chế văn hóa, xây dựng hệ thống hành chính công hiện đại, thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, chiến lược về phát triển văn hóa. Chú trọng đầu tư phát triển văn hóa; quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, kêu gọi hỗ trợ, đóng góp từ cộng đồng, doanh nghiệp, nhân dân trong bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa dân tộc. Tiếp tục tăng cường giáo dục đạo đức gắn với giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo dục tri thức cho các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh hoàn thiện việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa

Môi trường văn hóa lành mạnh là nền tảng để xây dựng xã hội tiến bộ, văn minh. Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, trước hết cần quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa thành thị với nông thôn, giữa các vùng miền. Chú trọng phát triển văn hóa cho các đối tượng yếu thế trong xã hội và đồng bào các dân tộc thiểu số. Quan tâm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đẩy mạnh các phong trào xây dựng môi trường văn hóa trong nhân dân. Xử lý hài hòa giữa bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa với phát triển kinh tế, du lịch ở các địa phương.

Thứ năm, chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa

Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam cần mở rộng giao lưu, hợp tác về văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới, góp phần giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hóa của dân tộc. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa theo tinh thần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa. Khuyến khích trao đổi, học hỏi kinh nghiệm các nước trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Giao lưu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn đất nước, chủ động nâng cao “sức đề kháng” của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên trước văn hóa phẩm ngoại lai độc hại, đưa văn hóa Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới.

5. Kết luận

Phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội là một thể thống nhất, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước, đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, văn hóa không ngừng khẳng định những đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những thời cơ, thách thức mới, toàn Đảng, toàn dân cần tiếp tục gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần hoàn thành các mục tiêu đề ra trên con đường xây dựng CNXH.

___________________

Ngày nhận bài: 28-6-2024; Ngày bình duyệt: 29-6-2024; Ngày duyệt đăng: 17-8-2024.

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.316.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.48, Sđd, 2006, tr.480.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.51, Sđd, 2007, tr.156.

(4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.52, Sđd, 2007, tr.407, 407-408.

(6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.55, Sđd, 2015, tr.370, 468-469.

(8) (9) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.57, Sđd, 2015, tr.338, 304.

(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88.

(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.77-78.

(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.316.

(13) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.

(14), (15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.17, 299.

(16) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.119.

(17), (18), (21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Sđd, tr.134, 8, 43.

(19) Hoàng Nguyễn: Việt Nam đứng thứ 3 khu vực ASEAN về GDP (PPP), https://www.aecvcci.vn, ngày đăng 15-11-2023.

(20) vov.vn: GDP năm 2023 của Việt Nam tăng 5,05%, https//www.vovlive.vn, ngày đăng 29-12-2023.

(22) Trịnh Thị Hạnh: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 524/2023, tr.36.

(23) Nguyễn Thị Phượng: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam, https://www.dangcongsan.vn/, ngày đăng 12-12-2022.

(24) Mai Lâm: Phát triển chính sách bảo hiểm y tế bền vững, hiệu quả trong tình hình mới, https://www.thoibaotaichinhvietnam.vn, ngày đăng 24-4-2024.

TS THÂN THỊ HẠNH
Trường Đại học Ngoại thương

TheoTạp chí Lý luận chính trị

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều