|
Ảnh minh họa: Đình Tăng |
Những thành tựu bước đầu
Trong nhiều năm qua, thực hiện chính sách dân tộc trên nguyên tắc: “Bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc và giúp nhau cùng phát triển”, Đảng và Chính phủ đã chú trọng đến công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và thành lập nhiều mô hình trường học dành cho con em đồng bào các dân tộc, như trường thanh niên dân tộc, trường vừa học vừa làm, trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, trường dự bị đại học dân tộc, trường thiếu sinh quân... Hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông được củng cố và phát triển, đáp ứng bước đầu nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc thiểu số.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc mới được công bố về tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tính đến ngày 01-8-2015 số lượng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đạt 79,8%; số lượng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông đạt 79,2%; tỷ lệ người có việc làm từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đạt 6,2%; tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp đạt 70,2% (trong đó, cấp tiểu học: 88,9%; cấp trung học cơ sở: 72,6%; cấp trung học phổ thông: 32,3%); tổng số trường học của các xã vùng dân tộc thiểu số là 17.722 trường (trong đó, trường mầm non: 5.420 trường; tiểu học: 5.968 trường; trung học cơ sở: 3.652 trường; trung học phổ thông: 597 và trường ghép hai bậc học tiểu học và trung học cơ sở là 293...). Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2014 - 2015, cả nước đã có 304 trường phổ thông dân tộc nội trú với gần 64.697 học sinh thuộc 45/53 dân tộc thiểu số theo học, trong đó có 215 trường cấp huyện, 89 trường cấp tỉnh. Năm học 2014 - 2015 số học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số là 1.316.048 em; trung học cơ sở: 816.995 em; trung học phổ thông: 296.868 em. Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục phổ thông, đến nay đã có 4 trung tâm đại học khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Hệ thống trường đào tạo nghề, trường cao đẳng được củng cố, phát triển ở cả 4 khu vực. Hiện cả nước có trên 13 nghìn người dân tộc thiểu số có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng; hơn 78 nghìn người có trình độ trung học chuyên nghiệp...
Thực hiện Nghị định số 82/2010/NĐ-CP, ngày 15-7-2010, của Chính phủ, Quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên, các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã cơ bản thực hiện sự nghiệp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lao động từng bước được nâng lên; tiềm lực và trình độ khoa học - công nghệ đã có bước phát triển đáng kể. Hệ thống các trường dự bị đại học và các khoa dự bị đại học dân tộc đang được phát triển cả về quy mô đào tạo và cơ sở vật chất. Các chương trình dạy tiếng dân tộc cho học sinh dân tộc thiểu số bước đầu được quan tâm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn được một số sách giáo khoa dạy chữ viết dân tộc Khmer, Mông, Mnông, Ba-na, Ê-đê, Chăm, Hoa... Nhiều tỉnh, như Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Đắk Lắk, Gia Lai, Yên Bái, Lào Cai.... đã xây dựng chương trình dạy song ngữ giữa tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số trong nhà trường
Chế độ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đang được thực hiện và đã đạt kết quả bước đầu. Với chính sách cử tuyển nhiều dân tộc thiểu số như các dân tộc Hà Nhì, Cơ Lao, Pà thẻn, Kháng, Sinh Mun, Bố Y, Lào... lần đầu tiên có học sinh được cử tuyển đi học các trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Chỉ tiêu cử tuyển cho học sinh các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học ngày càng tăng, mỗi năm trung bình cả nước có khoảng hơn 3 nghìn học sinh các dân tộc thiểu số được cử đi học theo chế độ cử tuyển ở các trường trung cấp, cao đẳng và đại học. Những thành tựu đã đạt được thể hiện rõ tính ưu việt trong chính sách phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước ta.
Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Hiện nay, những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như tình trạng đói nghèo, kém phát triển, chưa nhận thức và sự thiếu hiểu biết về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; một số đồng bào còn nghe theo kẻ xấu lừa phỉnh gây mất ổn định an ninh chính trị ở một số nơi,... có nguyên nhân chủ yếu là do trình độ học vấn của đồng bào còn thấp, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở vùng dân tộc thiểu số cũng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong ủy ban nhân dân tỉnh, huyện mới đạt khoảng 11,32%. Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45,7%, tiểu học: 18,7%; cao đẳng và đại học: 1,9%. Năng lực, trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ thôn, bản, phum, sóc còn thấp hơn. Bên cạnh đó, tỷ lệ lực lượng trong độ tuổi lao động của vùng dân tộc thiểu số đã qua đào tạo mới đạt 10,5%. Nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số có trình độ đại học và trên đại học mới đạt 2,8%, riêng người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1%, thấp hơn 4 lần so với toàn quốc(1).
Theo đánh giá của Ủy ban Dân tộc và Bộ Giáo dục và Đào tạo tại diễn đàn thường niên về phát triển dân tộc thiểu số năm 2015, so với mặt bằng chung cả nước, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao và có nguy cơ ngày càng rộng ra. Công tác phát triển giáo dục ở những vùng dân tộc khó khăn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ mù chữ, tái mù chữ trong đồng bào còn khá cao. Cụ thể, ở một số dân tộc thiểu số ít người, như Brâu, Rơ-măm, Si La, Xinh Mun, Chứt,... rất ít người có trình độ học vấn cao, trong đó dân tộc Brâu chưa có người học đại học.
Để mọi người dân có trình độ học vấn cao hơn đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước bằng việc mở trường, lớp, đào tạo giáo viên.... Ở những vùng có địa hình thuận lợi, như các tỉnh đồng bằng, trung du dân cư đông, việc mở trường lớp thuận lợi, lại được ngành giáo dục quan tâm hơn nên trình độ học vấn của người dân được nâng cao. Ngược lại, ở vùng miền núi là nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nơi có địa hình phức tạp, không thuận lợi, cơ sở vật chất, trường lớp thiếu thốn, nên công tác phát triển giáo dục, nâng cao trình độ học vấn của đồng bào còn nhiều hạn chế. Do vậy, trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số thấp hơn trình độ học vấn của đồng bào dân tộc đa số; hoặc trình độ học vấn của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới thấp hơn trình độ học vấn của đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở những vùng thuận lợi.
Quá trình thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số còn nhiều thiếu sót từ chương trình sách giáo khoa, phương pháp giáo dục và dạy học đến chính sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đội ngũ giáo viên thường thiếu và yếu, chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên dạy ở các vùng dân tộc thiểu số còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo động lực về vật chất và tinh thần để khuyến khích, thu hút giáo viên có tâm huyết với nghề, với sự phát triển sự nghiệp giáo dục.
Một trong những yếu tố làm hạn chế sự phát triển giáo dục ở nhiều vùng dân tộc thiểu số mà ngành giáo dục chưa quan tâm thỏa đáng là do vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong quá trình dạy và học. Trẻ em còn chưa thông thạo tiếng mẹ đẻ lại phải học tiếng phổ thông. Vì học không hiểu, học kém, thua bạn bè, gây ra tâm lý chán nản, sợ học, sợ phải đến trường nên nhiều học sinh đã bỏ học dẫn đến tình trạng mù chữ và tái mù chữ.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, câu hỏi: học để làm gì đang là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyết định của các gia đình có cho con đi học hay không. Chỉ khi nào đồng bào thấy lợi ích của việc học hành thì họ mới có quyết tâm cho con em đi học. Do đó việc đào tạo nghề đối với học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học cơ sở và trung học phổ thông là vấn đề cốt lõi cho công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách ưu tiên đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp giáo dục. Nhưng nếu chúng ta không có những giải pháp đồng bộ thì công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số khó có thể đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các vấn đề cần được giải quyết
Giáo dục luôn là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc, vì nó là nền tảng tri thức; là cơ sở tạo ra những con người có tài năng, có trí tuệ, có nhân cách. Sự thịnh suy, thăng trầm của giáo dục có quan hệ trực tiếp và lâu dài với sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự lạc hậu và kém phát triển của một dân tộc, một quốc gia biểu hiện trước hết ở sự lạc hậu và kém phát triển của nền giáo dục. Đặc biệt là trong thời đại của khoa học, công nghệ hiện nay, khi mà hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm lao động, thì điều đó có nghĩa là dân tộc nào, quốc gia nào không coi trọng phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài sẽ không có cơ hội, điều kiện để vươn lên và tụt hậu là điều không tránh khỏi.
Nói như vậy để thấy rằng, để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay đòi hỏi coi trọng phát triển giáo dục, nâng cao học vấn của đồng bào. Trình độ học vấn thấp đã hạn chế việc tiếp thu các kiến thức khoa học hiện đại, giảm hiệu quả việc thực hiện các chương trình, dự án của Nhà nước, hạn chế việc thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước và nghĩa vụ của đồng bào với đất nước, với quê hương, với sự phát triển chung của cả dân tộc.
Chúng ta không thể chờ kinh tế phát triển mới phát triển giáo dục. Giáo dục phải đi trước một bước. Chúng ta đã có kinh nghiệm phát triển sự nghiệp giáo dục ngay trong những ngày đầu giành độc lập, khi nạn đói làm hàng triệu người chết nhưng do thực hiện tốt công tác vận động, tuyên truyền phong trào “bình dân học vụ”, truyền thống hiếu học của nhân dân ta đã được khơi dạy. Để đất nước ta “sánh vai với các cường quốc năm châu”, như lời nhắn nhủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì công tác phát triển giáo dục phải đi trước một bước, phải được đầu tư một cách khoa học, thỏa đáng, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Phát triển giáo dục, đào tạo cho đồng bào dân tộc thiểu số để đồng bào có điều kiện vươn lên hòa nhập cùng đồng bào cả nước và thực hiện quyền bình đẳng của mình về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng cũng rất khó khăn. Công cuộc đổi mới của Đảng và toàn dân ta đã đạt nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, đồng thời nó cũng làm bộc lộ những khó khăn trong việc nâng cao dân trí của nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số, làm bức thiết thêm nhu cầu phát triển giáo dục đối với mỗi dân tộc. Vì vậy cần có sự giải quyết một cách khoa học và phải xem đó là nhiệm vụ cấp bách. Chỉ khi nào đồng bào dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn cao thì khi ấy họ mới có điều kiện để vượt qua nghèo nàn, lạc hậu và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, tức là mới có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ của mình, và cũng chỉ khi ấy các dân tộc thiểu số mới thực sự được bình đẳng.
Do vậy, để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay, các cấp, các ngành cần quan tâm những vấn đề sau:
Một là, tăng nguồn đầu tư cho công tác phát triển giáo dục ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có dân số ít. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách của Đảng và Nhà nước với hoạt động của ngành giáo dục và sự đóng góp của toàn dân cho sự nghiệp giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xã hội hóa giáo dục để toàn dân cùng quan tâm đóng góp một cách thiết thực là một trong những biện pháp hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, đào tạo đội ngũ giáo viên là người dân tộc thiểu số có trình độ cả về sư phạm và kiến thức cho từng vùng, từng dân tộc. Bên cạnh việc đào tạo, cần xây dựng chế độ đãi ngộ và sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, để họ yên tâm với nghề nghiệp, gắn bó với sự nghiệp “trồng người” ở chính quê hương của họ.
Ba là, ngành giáo dục cần xây dựng chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học của từng dân tộc, từng vùng. Cần chú trọng xây dựng trên cơ sở cả 2 ngôn ngữ là ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ phổ thông.
Bốn là, có chính sách đặc thù đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, nếu không thi được vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học thì bố trí đào tạo nghề và giải quyết việc làm sau khi ra trường để tránh lãng phí tiền của, công sức của bản thân học sinh, gia đình và nguồn nhân lực cho sự phát triển các vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.
Theo HÀ THỊ KHIẾT /Tạp chí Cộng sản
-------------------------------------------------------------
(1) Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc