Tăng cường thực hiện và hoàn thiện chính sách trợ giúp đối với trẻ em khuyết tật

(Mặt trận) - Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác chăm sóc, bảo vệ, cũng như đảm bảo các quyền trẻ em. Trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác trợ giúp xã hội, khuyến khích xã hội hóa việc chăm sóc đối với những người yếu thế, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có ý nghĩa quan trọng và là một yêu cầu tất yếu khách quan, góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là với trẻ em kém may mắn. Đây cũng là chính sách hợp thành trong chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, vì vậy, cần hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt chính sách về trợ giúp xã hội đối với trẻ em đặc biệt khó khăn.

Chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về trẻ em khuyết tật

Hiện nay, cả nước có khoảng 7,06 triệu người khuyết tật, trong đó trẻ em khuyết tật chiếm 28,3%. Những năm qua, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị luôn quan tâm đến người nghèo, người khuyết tật, tàn tật và có chính sách bảo trợ xã hội để giúp mọi người trong xã hội cùng vươn lên, không bỏ lại ai phía sau.

Cùng với hỗ trợ của Nhà nước, sự chung tay giúp đỡ của toàn xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, không những tăng nguồn lực xã hội trợ giúp cho đối tượng yếu thế, kém may mắn mà còn thể hiện truyền thống “tương thân, tương ái”, “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta.

Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm đến công tác trợ giúp người khuyết tật, quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng. Trẻ em khuyết tật cũng là những công dân, chủ nhân tương lai của đất nước, cũng như tất cả các trẻ em khác phải được chăm sóc, bảo vệ, nuôi dạy, tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ em. Đó là trách nhiệm của các bậc cha mẹ, gia đình, của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể và toàn xã hội. Chính vì thế, ở Việt Nam ta lấy tháng 6 hàng năm là Tháng hành động vì trẻ em.

Kể từ khi trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, đồng thời là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật năm 2007, vị trí, vai trò của người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi nhằm đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật.

 Ảnh minh họa

Các văn kiện của Đảng đều đề cập đến chính sách xã hội, quan tâm các vấn đề xã hội như phát triển kinh tế, đồng thời với phát triển kinh tế để nhân dân được thụ hưởng thành quả chung, có chính sách chăm lo cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là những người yếu thế, đối tượng thuộc bảo trợ xã hội: “chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi” (Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tháng 6/1991).

Ngày 1/11/2019, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 39-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật. Hiến pháp năm 2013 quy định Nhà nước “có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn”.

Hàng loạt chính sách, đề án, chương trình đã được ban hành với mục đích xây dựng hành lang pháp lý chuẩn mực, là cơ sở cho việc bảo đảm và thúc đẩy thực thi có hiệu quả các quyền của trẻ em trên thực tế.

Đặc biệt, sự ra đời của Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Trẻ em năm 2016 (kế thừa Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trước đây) đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về vị trí của trẻ em khuyết tật trong xã hội và thể hiện nỗ lực, quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em khuyết tật hoà nhập với cộng đồng.

Hệ thống pháp luật, chính sách về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ em khuyết tật đang từng bước được hoàn thiện nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Chính sách của Nhà nước về người khuyết tật được thể hiện trên các nội dung cơ bản là:

(1) Hàng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về người khuyết tật;

(2) Phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật;

(3) Bảo trợ xã hội; trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công trình công cộng và công nghệ thông tin, tham gia giao thông; ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi;

(4) Lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội;

(5) Tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng;

(6) Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc người khuyết tật;

(7) Khuyến khích hoạt động trợ giúp người khuyết tật;

(8) Tạo điều kiện để tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật hoạt động;

(9) Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích, đóng góp trong việc trợ giúp người khuyết tật;

(10) Xử lý nghiêm minh cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Ngoài việc các định rõ trách nhiệm của gia đình, của cơ quan nhà nước, đặc biệt là ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, pháp luật cũng xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Điều 7 Luật Người khuyết tật ghi rõ:

(1) Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khuyết tật;

(2) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm vận động xã hội trợ giúp người khuyết tật tiếp cận dịch vụ xã hội, sống hòa nhập cộng đồng; tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật và chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật;

(3) Mọi cá nhân có trách nhiệm tôn trọng, trợ giúp và giúp đỡ người khuyết tật.

Khuyến khích xã hội hóa trợ giúp người khuyết tật. Điều 6 Luật Người khuyết tật (Luật số: 51/2010/QH12) ghi rõ:

“Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài chính, kỹ thuật để thực hiện hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết tật.

Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, chăm sóc, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm hoặc cơ sở cung cấp dịch vụ khác trợ giúp người khuyết tật được hưởng chính sách ưu đãi xã hội hóa theo quy định của pháp luật”.

Điểm 2 Điều 42 Luật Trẻ em năm 2016 ghi rõ:

“Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia trợ giúp, chăm sóc trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ về đất đai, thuế, tín dụng cho tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật”.

Các chính sách, chế độ trợ cấp xã hội, trợ giúp y tế, giáo dục, học nghề, giải quyết việc làm, hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được ban hành để hỗ trợ trẻ em khuyết tật được tiếp cận với các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng.

Những cam kết chính trị cùng sự lãnh đạo mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến cơ sở đã giúp cải thiện cuộc sống của hàng triệu trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.

Những kết quả bước đầu

Theo kết quả thống kê cho thấy, nhiều trẻ em khuyết tật được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng; nhiều trường học trong cả nước đã tiếp nhận trẻ em khuyết tật để hỗ trợ theo hướng giáo dục hòa nhập; chăm sóc y tế và phục hồi chức năng đã cải thiện đáng kể, đã mở rộng mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, địa phương nơi trẻ em khuyết tật sinh sống; trẻ em khuyết tật đã được giảm giá vé, phí tham gia giao thông công cộng, các hoạt động văn hóa ở các cơ sở văn hóa, du lịch có thu phí.

Nhà nước cũng dành một nguồn lực đáng kể cho công tác chăm sóc người khuyết tật. Năm 2022, đã bố trí 28.731 tỷ đồng thực hiện Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ. Ngân hàng chính sách xã hội cũng đã cho vay 3.206 dự án, tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động là người khuyết tật. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội của người khuyết tật đã tích cực vận động xã hội, thực hiện xã hội hóa trong công tác chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật.

Các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, trẻ em khuyết tật được triển khai rất đa dạng, đáp ứng thiết thực nhu cầu của đối tượng được trợ giúp: hỗ trợ chăm sóc, điều trị, phẫu thuật, xông hơi giải độc, phục hồi chức năng, cấp thẻ bảo hiểm y tế, tặng xe lăn, xe lắc, xe bại não, tặng xe đạp và học bổng, trợ giúp tìm việc làm; xây mới, sửa chữa nhà tình thương, nhà Đại đoàn kết; hỗ trợ xây dựng đường tiếp cận; hỗ trợ xây dựng công trình vệ sinh hợp quy chuẩn quốc gia; trợ cấp thường xuyên, thăm hỏi, tặng quà, dạy nghề, hỗ trợ vật nuôi cho hộ gia đình có người khuyết tật.

Thực hiện Nghị định số 103 và Quyết định số 565, cả nước đã thành lập và củng cố hoạt động của 425 cơ sở trợ giúp xã hội (191 cơ sở công lập và 234 cơ sở ngoài công lập), đáp ứng nhu cầu trợ giúp xã hội cho 30% đối tượng. Tổng số cán bộ, nhân viên công tác xã hội hiện đang làm việc tại các cơ sở trợ giúp xã hội và mạng lưới tại cấp xã khoảng 35.000 người. Mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, lao động và dạy nghề, hoạt động thể dục thể thao, văn hóa và chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng.

Giai đoạn 2015-2020, các địa phương đã bước đầu quan tâm xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các mô hình trung tâm, hỗ trợ kinh phí nâng cấp, sửa chữa, cải tạo và mua sắm trang thiết bị cho khoảng 100 cơ sở trợ giúp xã hội. Nhiều mô hình trung tâm vận hành hiệu quả như: Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bến Tre, Long An, Thanh Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên… Các địa phương từng bước chuyển đổi hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội sang hoạt động theo mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

Với chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức xã hội - từ thiện có tính đặc thù được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định cho phép thành lập Hội ngày 4/12/1993, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tích cực, tiên phong, nêu gương trong thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết giúp đỡ người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cứu trợ trẻ em tàn tật.

Thời gian qua, hoạt động của Hội đã hướng vào tôn chỉ, mục đích, phát triển tổ chức Hội và hội viên ở các địa phương, xây dựng gần 50 cơ sở trực tiếp tiếp nhận chữa trị, dạy dỗ, phục hồi chức năng cho hàng trăm ngàn lượt trẻ em tàn tật, trong đó đã có gần 60 ngàn em phục hồi được chức năng sống, gần 5 ngàn em đã có việc làm, có thu nhập từ 2 triệu đến 4 triệu đồng/tháng, có cuộc sống ổn định; có em lớn lên từ các trung tâm là ngôi nhà của mình đã có gia đình riêng, sống hạnh phúc, gần 2 ngàn em đã được chuyển ra học tại các lớp hòa nhập, góp phần chăm sóc hơn 2 triệu trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.

Hội đã thực hiện xây dựng mô hình “Xây dựng đơn vị an toàn với trẻ em khuyết tật", phối hợp với một số trường xây dựng mô hình phát hiện sớm trẻ em tự kỷ, là việc làm cụ thể để nhân lên hiệu quả sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, nhân lên tình người trong xã hội. Hội là địa chỉ cho những tấm lòng từ thiện, là khâu nối sự tham gia của các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào cứu trợ trẻ em khuyết tật, các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận, sự giúp đỡ của các tổ chức và cá nhân quốc tế giúp trẻ em khuyết tật hòa nhập cuộc sống.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt, công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc do một số chính sách chưa phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta.

Tiến độ thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật còn chậm. Việc bao quát các hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật của các bộ, ngành, địa phương còn chưa đầy đủ. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá, hoạt động hỗ trợ trẻ em khuyết tật từ Trung ương đến địa phương không thường xuyên.

Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương với địa phương trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật thiếu chặt chẽ, hài hoà, đồng bộ nên hạn chế về kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra.

 Nhiều chính sách không được thực hiện đồng bộ; việc xác định mức độ khuyết tật chưa hoàn thành, chưa chính xác, do đó gặp những khó khăn trong việc trợ cấp xã hội hàng tháng cho trẻ em khuyết tật.

Một số chính sách chưa đến đúng đối tượng, đặc biệt đối với trẻ ở vùng sâu, vùng xa, con em đồng bào dân tộc thiểu số, vùng nông thôn, nguồn lực của Nhà nước chưa đáp ứng được với nhu cầu của trẻ em khuyết tật hiện nay.

Trong hoạt động các trung tâm, nhà cứu trợ, cơ sở thuộc Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật hiện nay gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện chăm sóc, nhất là sau đại dịch Covid-19 các nhà hảo tâm trợ giúp cho các trung tâm, nhà cứu trợ cũng gặp khó khăn về kinh tế.

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Luật Bảo vệ trẻ em và Luật Người khuyết tật khuyến khích xã hội hóa trong việc chăm sóc, trợ giúp người khuyết tật, trẻ em khuyết tật.

Điểm 2 Điều 42 Luật Trẻ em năm 2016 ghi rõ: “Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia trợ giúp, chăm sóc trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ về đất đai, thuế, tín dụng cho tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật” nhưng thực tế nhiều tổ chức, cá nhân gặp rất nhiều khó khăn trong tiếp cận đất đai, thủ tục thành lập, cấp phép hoạt động.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và toàn dân về thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.

Khắc phục nhận thức chưa đầy đủ, xem công tác này chỉ là hoạt động từ thiện, là công việc của một ngành, của các tổ chức xã hội của trẻ em. Đây được coi là giải pháp đầu tiên và là bước đi ban đầu có ý nghĩa tiên quyết đối với hiệu quả thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.

Đa dạng các hình thức tuyên truyền, chú trọng tuyên truyền đến các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, thiểu số, vùng xã đảo về công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức trong xã hội về quyền của người khuyết tật nói chung trẻ em khuyết tật nói riêng, chống kỳ thị, phân biệt đối xử, bạo lực về giới, hành vi kỳ thị phân biệt đối sử với trẻ em khuyết tật, hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em.

Hai là, tăng cường sự phối hợp của gia đình có người khuyết tật và trẻ em khuyết tật từ việc xác định đối tượng, đến việc lập kế hoạch triển khai thực hiện ở xã, phường, thị trấn để quản lý nguồn lực, giám sát, đánh giá.

Bên cạnh chính sách hỗ trợ trực tiếp cho trẻ em khuyết tật cần phải hướng tới việc hỗ trợ cho hộ gia đình có trẻ em khuyết tật, nhằm giúp cho đối tượng này được chăm sóc tốt hơn, qua đó lợi ích của trẻ em khuyết tật được đảm bảo một cách bền vững và lâu dài.

Ba là, hoàn thiện chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực thông qua việc triển khai thực hiện tại các cơ sở.

Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và các địa phương cần thực hiện tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật Người khuyết tật và các quy định khác về trẻ em khuyết tật, đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về người khuyết tật, trẻ em khuyết tật.

Tăng cường kiểm tra, giám sát, tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp xã hội trẻ em khuyết tật; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác xã hội hiện đang làm việc tại các cơ sở trợ giúp xã hội cả trong và ngoài công lập.

Trình Quốc hội Luật sửa đổi Luật Người khuyết tật, hoàn thiện ban hành và đẩy mạnh triển khai các Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2021 - 2030, Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021 - 2030, Đề án quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021 - 2030 và các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Thực hiện tốt công tác chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, nắm chắc tình hình thiệt hại; bảo đảm ổn định đời sống nhân dân khi có thiên tai xảy ra; chủ động rà soát tình thiệt hại thiên tai để có giải pháp hỗ trợ kịp thời; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện trợ giúp đột xuất ở địa phương.

Đảm bảo 100% người dân gặp khó khăn do hậu quả của thiên tai, hỏa hoạn, hoặc các lý do bất khả kháng khác được hỗ trợ các điều kiện sống tối thiểu về lương thực, thực phẩm, nhà ở, đất ở, công cụ sản xuất, dạy nghề, giới thiệu việc làm…

Bốn là, đẩy mạnh công tác xã hội hoá, huy động nguồn lực của các tổ chức xã hội trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật. Đồng thời, thực hiện kết nối các bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc bảo đảm thực hiện các chính sách đối với người khuyết tật và trẻ em khuyết tật. Tạo điều kiện cho các tổ chức của người khuyết tật có đủ năng lực tham gia các dịch vụ công của Nhà nước.

Có cơ chế, khuyến khích sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước xây dựng những trung tâm chăm sóc trẻ em khuyết tật theo mô hình tổng hợp đan xen các hoạt động bao gồm: hoạt động giáo dục đặc biệt, giáo dục chuyên biệt, giáo dục hoà nhập; hướng nghiệp và đào tạo nghề, chăm sóc y tế; phục hồi chức năng, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao; chăm sóc nuôi dưỡng để các em có kỹ năng sống, có một nghề để tái hoà nhập với gia đình, cộng đồng và trở thành những thành viên có ích cho xã hội.

Năm là, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ chức của trẻ em khuyết tật. Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, chăm sóc, trợ giúp trẻ em khuyết tật vươn lên.

Hội sẽ tiếp tục củng cố, phát triển các cơ sở hội, các trung tâm, nhà cứu trợ tại các địa phương, đẩy mạnh hoạt động là nhịp cầu nhân ái, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh, chữa tật, hỗ trợ phục hồi chức năng, dạy chữ, dạy nghề, hướng nghiệp, tạo việc làm cho trẻ em khuyết tật.

Huy động công, của, sức lực, trí tuệ của xã hội cho hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng nhằm góp phần làm cho trẻ em khuyết tật giảm bớt khổ đau và bất hạnh, được bảo vệ và chăm sóc theo trẻ em, Luật Người khuyết tật của Nhà nước ta và Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, giúp trẻ em khuyết tật sống hoà nhập bình đẳng với cộng đồng.

Đồng thời, tham gia các chương trình nhân đạo, từ thiện, khắc phục thiên tai, dịch bệnh, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia… để cùng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, giúp trẻ em khuyết tật vươn lên hòa nhập cộng đồng, vì sự phát triển của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngô Sách Thực -  Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Chủ tịch Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều