|
Dưới sự chứng kiến của Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng và Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã ký kết kế hoạch phối hợp thực hiện chương trình hỗ trợ "Triệu phần quà đại đoàn kết tiếp sức đồng bào miền Nam vượt qua đại dịch COVID-19" |
Quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội
Chính sách xã hội được hiểu là bộ phận cấu thành chính sách chung của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội bên cạnh các vấn đề chính trị, kinh tế. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt đời sống của con người, bao gồm chính sách an sinh xã hội và xóa đói, giảm nghèo; chính sách về sức khỏe cộng đồng; chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội; chính sách ưu tiên thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách ưu đãi đối với người có công; chính sách thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn; chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở...
Ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã xác định nhận thức về chính sách xã hội: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”1.
Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính sách xã hội: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”2. Có thể nói, Đại hội VI đã thể hiện bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, là động lực to lớn phát huy tính năng động, sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng ta đã khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”3. Đồng thời, Đảng ta cũng chỉ ra phương hướng lớn của chính sách xã hội là: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”4.
Xuyên suốt các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách xã hội, trong đó nổi bật quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con người: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người”5; quan điểm công bằng xã hội trong các chính sách xã hội theo hướng “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sự dụng tốt năng lực của mình”6; “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”7; “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội”8.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần”9.
Để thực hiện tốt mục tiêu công bằng trong các chính sách xã hội, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước”10.
Đến Đại hội XII, Đảng ta đã có nhận thức mới về vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề xã hội; lần đầu tiên các vấn đề xã hội được diễn đạt theo cách tiếp cận mới là “quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”11.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nội dung, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nhưng nhấn mạnh yêu cầu bền vững như mục tiêu chung của toàn bộ vấn đề xã hội. Đồng thời, Đại hội XIII cũng chỉ ra một số nội dung mới, cụ thể hơn về phương pháp tiếp cận, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội, chính sách huy động và phân bổ các nguồn lực cho các vấn đề xã hội: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hoà”12.
Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội từ nhiều năm qua, nhất là từ Đại hội VI đến nay, cho thấy Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Thành tựu, hạn chế của việc tổ chức thực hiện chính sách xã hội trong hơn 35 năm đổi mới và vấn đề đặt ra cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Xây dựng và thực hiện tốt chính sách xã hội luôn là quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Sau hơn 35 năm đổi mới, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều này thể hiện ở hệ thống chính sách ngày càng phát triển, hoàn thiện, trở thành hệ thống chính sách hỗ trợ lẫn nhau, đáp ứng những vấn đề thiết yếu của Nhân dân, vì Nhân dân, vì con người, đồng thời thúc đẩy xã hội đi tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Những vấn đề lao động, việc làm, chất lượng dân số, chăm sóc sức khỏe, về trình độ dân trí, xóa đói, giảm nghèo, các chính sách về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội và chính sách bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được quan tâm. Các chính sách xã hội đã góp phần tích cực trong việc nâng cao đời sống người dân, từng bước đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp và cộng đồng dân cư trong xã hội. Nhất là trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam đã chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, không còn tình trạng hộ thiếu đói kinh niên, tình trạng nghèo đã chuyển từ diện rộng ở các vùng, miền sang cục bộ ở một số vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và trong một số nhóm dân cư. Việt Nam đã sớm hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói.
Đại hội XIII đã khẳng định những thành tựu trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội sau hơn 35 năm đổi mới: “Từng bước hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế. Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, quan tâm nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương; mở rộng bảo hiểm xã hội; tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%. Hệ thống tổ chức y tế tiếp tục được kiện toàn. Quy mô, năng lực, chất lượng y tế dự phòng, khám, chữa bệnh, phòng, chống dịch, chăm sóc sức khỏe Nhân dân có bước phát triển… Đời sống Nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở xã hội được quan tâm; đã hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, trong đó có nhiều mục tiêu về giảm nghèo, y tế, giáo dục hoàn thành trước thời hạn, được đánh giá là điểm sáng; đang tích cực triển khai thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030”13.
Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, thiên tai xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại lớn, nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội còn hạn hẹp… những thành tựu của việc tổ chức và thực hiện chính sách xã hội trong hơn 35 năm đổi mới là rất đáng tự hào, góp phần quan trọng trong việc xây dựng thế trận lòng dân, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, những thành tựu to lớn của việc tổ chức và thực hiện chính sách xã hội trong hơn 35 năm đổi mới chưa thực sự trọn vẹn bởi những hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục. Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa”14.
Những vấn đề xã hội cơ bản như giảm nghèo, phân hóa giàu - nghèo, chất lượng dịch vụ y tế, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… còn nhiều hạn chế, bất cập. Đại hội XIII cũng chỉ ra những vấn đề xã hội cơ bản chưa được làm tốt: “Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bảo dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa”15.
Đánh giá việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc sau 35 đổi mới, Đại hội XIII chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”16. Chính vì vậy, các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được phát huy tốt. Những hạn chế, bất cập của việc quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội nói trên là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trước những vấn đề xã hội này, yêu cầu thực tiễn đặt ra là phải tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội một cách hiệu quả nhằm bảo đảm đời sống ngày càng ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân; công bằng, bình đẳng trong xã hội, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện cho họ vươn lên trong cuộc sống; giảm thiểu sự phân hóa giàu - nghèo, giảm những rủi ro, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người; tạo điều kiện cho mỗi người dân được hưởng những điều tốt đẹp nhất trong sự phát triển chung của xã hội; để mỗi người có đầy đủ điều kiện cho việc phát huy tiềm năng con người của mình một cách toàn diện.
Trong thời gian tới, nước ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như: nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, tác động của đại dịch Covid-19, vấn đề già hoá dân số; tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp và nhiều nguyên nhân khác làm cho việc quản lý phát triển xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách xã hội đồng bộ, bao phủ và hệ thống các giải pháp tổ chức thực hiện hiệu quả.
Để đưa các chính sách xã hội vào thực tiễn đời sống, việc tổ chức thực hiện các chính sách xã hội cần được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong Nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội sẽ giúp huy động và sử dụng hiệu quả nhiều loại nguồn lực, bao gồm: vốn kinh tế, vốn con người, vốn xã hội, vốn văn hóa trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Điều đó rất cần có sự vững mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc vận động các tầng lớp nhân dân tổ chức thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, năng lực cho cán bộ Mặt trận về công tác vận động các tầng lớp nhân dân.
Một vấn đề cơ bản quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả vận động các tầng lớp nhân dân là việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận, nhất là nâng cao nhận thức, trình độ năng lực của cán bộ Mặt trận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ công tác vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội. Bởi vì, chỉ khi cán bộ Mặt trận có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách xã hội, từ đó mới xác định rõ trách nhiệm, quyết tâm, kế hoạch, phương thức và phát huy mọi khả năng đổi mới, sáng tạo trong công tác tổ chức thực hiện; tham mưu đề xuất cũng như trực tiếp tham gia cùng Nhân dân thực hiện chính sách xã hội với hiệu quả cao nhất. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
Hai là, tăng cường công tác phối hợp với cấp ủy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động các tầng lớp nhân dân.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi địa phương, đơn vị. Vì vậy, tăng cường công tác phối hợp với cấp ủy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tác vận động các tầng lớp nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả công tác vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cùng cấp ủy các cấp cần thường xuyên quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và chính sách xã hội. Trên cơ sở đó, mỗi địa phương, đơn vị ra nghị quyết và xây dựng kế hoạch công tác vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm sát với tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các địa phương, đơn vị tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác vận động các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội, qua đó nắm chắc tình hình thực hiện nhiệm vụ; phát hiện những vấn đề mới nảy sinh; uốn nắn, nhắc nhở những hạn chế, thiếu sót; kịp thời đề xuất bổ sung chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ.
Ba là, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp vận động các tầng lớp nhân dân.
Vận động các tầng lớp nhân dân là một biện pháp nghiệp vụ cơ bản, làm cơ sở để tiến hành các công tác khác. Việc vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp vận động các tầng lớp nhân dân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, tác động ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả công tác vận động các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, trên cơ sở nội dung vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách xã hội, mỗi địa phương, đơn vị và ở từng thời điểm cụ thể đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức vận động các tầng lớp nhân dân cho phù hợp với tình hình thực tế. Tập trung nghiên cứu đổi mới phương pháp tuyên truyền nâng cao giác ngộ chính trị, hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân. Đổi mới hình thức, phương pháp, vận động, hướng dẫn Nhân dân thực hiện chính sách xã hội trong các cuộc vận động, phong trào lớn, như: “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”; “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”... Cần chú ý, nội dung tuyên truyền vận động, hướng dẫn phải ngắn gọn, dễ hiểu, các bước tiến hành phải phù hợp với đặc điểm, trình độ, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, đơn vị.
Bốn là, phát huy hiệu quả các nguồn lực của cộng đồng và người dân trong thực hiện chính sách xã hội.
Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, bởi để hiện thực hóa chính sách xã hội cần nguồn lực rất lớn, trong khi đó nguồn lực của Nhà nước thì có hạn. Để thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ và công bằng, cần coi trọng nguồn lực của cộng đồng và người dân trong việc thực hiện chính sách xã hội nhằm đạt mục tiêu và hiệu quả cao hơn. Để phát huy hiệu quả các nguồn lực của cộng đồng và người dân trong thực hiện chính sách xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần tạo điều kiện bảo đảm cho cộng đồng và người dân tham gia thực chất và có hiệu quả những hoạt động sau đây: 1) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp cùng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng thể chế (cơ chế, chính sách, pháp luật), chiến lược, kế hoạch, chương trình bảo đảm thực hiện chính sách xã hội; 2) Tham gia phản biện các cơ chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình này do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng; 3) Phát huy vai trò đại diện cho các nhóm xã hội, xây dựng và phát triển cộng đồng tham gia bảo đảm thực hiện chính sách xã hội cho người dân, nhất là cho nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; 4) Tham gia cung cấp dịch vụ công về chính sách xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả; nhân rộng các mô hình hiệu quả thực hiện các chính sách xã hội; 5) Xây dựng và phát triển cộng đồng, các tổ chức xã hội đa dạng, phù hợp với nhu cầu bảo đảm thực hiện chính sách xã hội của người dân, phát triển cộng đồng, gắn kết, đồng thuận và tiến bộ.
Năm là, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện thực chất và có hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong quá trình thực hiện chính sách xã hội.
Đại hội XIII của Đảng đã yêu cầu: “Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”17. Với phương châm đó, Mặt trận Tổ quốc và cấp ủy các cấp cần quan tâm chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của Nhân dân; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân”, muốn vậy phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Để hiện thực hóa phương châm này trong cuộc sống, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cấp ủy các cấp cần phối hợp chặt chẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để đề xuất bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thực hiện chính sách xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, bảo đảm yêu cầu phát triển mọi mặt đời sống xã hội đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; tiếp tục vận động và nâng cao nhận thức của người dân về quyền và trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách xã hội; tạo điều kiện cho người dân có kiến thức, kỹ năng, thái độ, thói quen trong thực hiện chính sách xã hội; thực hiện quyền và trách nhiệm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau; tiếp tục nâng cao trách nhiệm, gắn với thường xuyên giám sát, kiểm tra đánh giá trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cấp ủy các cấp trong việc thực hiện chính sách xã hội; khuyến khích người dân dám nói, dám thể hiện chính kiến, quan điểm của mình theo tinh thần thực hiện dân chủ ở cơ sở; có biện pháp ngăn cấm hành vi trù dập những người đã mạnh dạn tố cáo những sai trái của cán bộ nhà nước; xử lý thích đáng, nghiêm minh những kẻ vi phạm pháp luật, vi phạm lợi ích của Nhân dân và xã hội trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm nói trên, tập hợp ý kiến, nguyện vọng, hiến kế của Nhân dân, phản ánh định kỳ và đột xuất để các cấp ủy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, hiệu quả; đồng thời, quan tâm theo dõi, giám sát việc giải quyết các kiến nghị, đề nghị chính đáng của Nhân dân trong quá trình thực hiện chính sách xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động Nhân dân ý thức được về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình, đồng thuận và tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực chính sách xã hội, góp phần tạo sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp vận động Nhân dân chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong việc thực hiện chính sách xã hội; phối hợp đề xuất, xây dựng các cơ chế, phương thức phù hợp phản ánh tới cấp ủy, chính quyền và trực tiếp đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong việc thực hiện chính sách xã hội ở ngay tại mỗi địa phương, đơn vị. Tất cả những việc làm đó là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, Phần I, tr.84-85, 85, 433, 433-434, 397, 712, 923.
9, 10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, Phần II, tr. 115-116, 508, 675.
12,13, 14, 15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.147-148, 65-66, 85, 85-86, 88, 173.
Trần Quốc Dân
Nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật