(Ảnh minh họa)
Trả lời:
Hợp đồng lao động của vợ bạn ký năm 2012, theo đó:
Căn cứ Khoản 1, Điều 141 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2002 quy định, loại hình BHXH bắt buộc được áp dụng đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng BHXH theo quy định; người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp BHXH ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất.
Điểm a, khoản 1, Điều 18 Luật BHXH năm 2006 quy định: Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định và hằng tháng trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo quy định (3% vào quỹ ốm đau, thai sản, 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ 02 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt 14%) để đóng cùng một lúc vào Quỹ BHXH.
Luật BHXH năm 2006, Điều 80 quy định, BHTN áp dụng bắt buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động theo quy định; Điều 102 quy định, người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng, người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của người lao động.
Khoản 1, Điều 12 Luật BHYT quy định, người lao động làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động… thuộc đối tượng đóng BHYT bắt buộc.
Đối chiếu với những quy định nêu trên, việc đóng BHXH bắt buộc, BHYT, BHTN cho người lao động đối với người sử dụng lao động là chính sách đã được pháp luật quy định và bảo vệ. Thời gian đóng BHXH, BHYT, BHTN được xác định, cộng nối làm căn cứ tính hưởng chế độ cho người lao động theo từng trường hợp cụ thể. Do đó, không có cơ sở để người sử dụng lao động yêu cầu người lao động nộp lại khoản tiền này cho người sử dụng lao động.
TH. (Vụ Pháp chế, BHXH Việt Nam)
Theo Tạp chí Bảo hiểm BHXH Việt Nam