|
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về kinh tế tập thể và tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012. |
GÓP PHẦN THỰC HIỆN MỤC TIÊU KÉP
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế tức là đổi mới cách thức huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo hướng hợp lý và hiệu quả; chuyển cách thức tăng trưởng theo chiều rộng từ chủ yếu dựa vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên sang tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu chủ yếu dựa vào sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế. Bởi để thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng, phải cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm khắc phục những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng; đồng thời xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng.
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế là chủ trương lớn và được đề cập rõ nét từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cho đến nay. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng xác định “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, định hướng về mô hình tăng trưởng tiếp tục được phát triển, lấy phát triển chiều sâu là hướng chủ đạo và nâng cao tính bền vững, chú trọng cả chất lượng và số lượng. Đảng xác định mô hình tăng trưởng là “kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững...”
Triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21-2-2017 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1-11-2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 8-11-2016 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Tại Nghị quyết Chính phủ đã có 16 nhóm nhiệm vụ với 120 nhiệm vụ cụ thể giao cho các bộ, ngành, địa phương. Trong giai đoạn 2016-2020, khoảng 300 văn bản các loại đã được soạn thảo và ban hành, trong đó đã trình Quốc hội thông qua 26 luật nhằm hoàn thiện thể chế, tạo khung pháp lý cho quá trình cơ cấu lại toàn diện nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Tư duy, nhận thức và hành động trong thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã chuyển biến tích cực.
Có thể thấy, hiệu quả của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng tại Việt Nam ngày càng được bộc lộ rõ, đặc biệt trong giai đoạn 2016-2020. Giai đoạn này, mô hình tăng trưởng đã bước đầu chuyển biến theo hướng tích cực, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, góp phần thực hiện thành công mục tiêu kép là vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP), tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc, củng cố quốc phòng, ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Cụ thể, tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện. Tốc độ tăng GDP năm 2016 đạt 6,21%, năm 2017 tăng lên 6,81%, năm 2018 đạt 7,08%, và năm 2019 đạt 7,02%; bình quân 4 năm 2016-2019 đạt mức 6,8% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015), đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%-7 % của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng trưởng giảm nhiều so với năm 2019, đạt 2,91%, làm giảm mức bình quân chung giai đoạn 2016-2020. Mặc dù tăng trưởng GDP năm 2020 đạt thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020 nhưng trước những tác động tiêu cực của dịch Covid-19 thì đó là một thành công của nước ta với tốc độ tăng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới.
Nhìn lại kết quả trong năm 2021, những tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của đại dịch Covid-19 được đánh giá là nghiêm trọng hơn nhiều so với năm 2020. Ở Việt Nam, dịch bệnh đã xâm nhập vào các trung tâm kinh tế lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất với diễn biến rất phức tạp. Đối phó với biến thể Delta có tốc độ lây lan nhanh và nguy hiểm, Chính phủ phải áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch chưa có tiền lệ, quyết liệt để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân.
Trong năm 2021 những định hướng chiến lược trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh. Trong dịch bệnh, chúng ta chứng kiến quá quá trình chuyển đổi số, đổi mới, sáng tạo đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các ngành, lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế, đặc biệt là các dịch vụ như y tế, giáo dục, thanh toán và giao thông thông minh, thương mại điện tử... Tác động của dịch bệnh là rất nặng nề, tuy nhiên khép lại 2021, GDP của Việt Nam vẫn đạt 2,58%, dù không đạt kế hoạch nhưng xét trong bối cảnh chung, vẫn cho thấy sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trước tác động của đại dịch Covid-19. Điều này cho thấy nền tảng vững chắc của nền kinh tế, cách thức ứng phó linh hoạt của những người “đứng mũi chịu sào” và sự sáng tạo, sức chống chịu bền bỉ của các DN trong đại dịch Covid-19.
Tốc độ tăng trưởng GDP có sự cải thiện rõ rệt cùng với đó là cách thức tăng trưởng đã dần dịch chuyển sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Tính chung cả giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là 33,58%; giai đoạn 2016 – 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế tăng lên đáng kể, ước đạt 45,21 % (vượt mục tiêu đặt ra là đóng góp của TFP vào tăng trưởng 5 năm giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 30-35%). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Tăng trưởng kinh tế dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất lao động. Đây là điểm nổi bật nhất của thay đổi cách thức hay chất lượng tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%).
Về tổng thể, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới được cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm gồm Moody’s, Standard & Poor's và Fitch đồng loạt nâng cấp độ triển vọng từ “Ổn định” lên "Tích cực" kể từ khi đại dịch bùng phát.
KINH TẾ, XÃ HỘI, MÔI TRƯỜNG: 3 TRỤ CỘT QUAN TRỌNG TRONG MỌI MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN
Trong bối cảnh ngày nay, chúng ta càng thấu hiểu đà tăng trưởng kinh tế sẽ không thể duy trì lâu dài nếu thiếu tính bền vững. Phát triển bền vững không mâu thuẫn với tăng trưởng nhanh, ngược lại chính là nội hàm quan trọng, làm nên điều kiện cần và đủ của tăng trưởng nhanh trong dài hạn, đặc biệt là trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, phát triển bền vững là mục tiêu bao trùm không chỉ là vấn đề kinh tế, chất lượng tăng trưởng mà bao gồm cả vấn đề xã hội, môi trường, văn hóa, con người. Chính vì vậy, trong mọi mô hình phát triển, nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế phải là quá trình hiện thực hiệu quả ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường, để hướng tới sự phát triển nhanh, bền vững. Trên thực tế, một số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, chọn cách phát triển miễn sao tăng thu nhập hiện tại, mà không chú ý đến hậu quả lâu dài của cách phát triển đó đến môi trường sinh thái, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đến tình trạng gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội, và mất ổn định chính trị - xã hội.
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế. Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng còn chậm. Tốc độ tăng năng suất lao động nội ngành chưa cao; đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng năng suất lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành chưa rõ nét, chưa bền vững. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu. Khu vực tư nhân phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở của nền kinh tế; mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm...
Vì vậy, để thực hiện hiệu quả ba trụ cột kinh tế-xã hội-môi trường trong kế hoạch tái cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2021-2025, Việt Nam cần tìm kiếm, khai thác các động lực tăng trưởng mới. Trong đó tiềm năng từ cải cách thể chế là then chốt và đổi mới, sáng tạo là vô tận. Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào cải cách, trong đó đặc biệt là các động lực về thể chế, chính sách, pháp luật; kinh tế tư nhân; hội nhập kinh tế quốc tế...
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu phát triển đất nước: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Theo đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới được Đảng xác định đó là “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế”.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết để trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 như các mục tiêu dự kiến đặt ra, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn 2021-2025 cần được đẩy nhanh hơn và thực sự bứt phá. Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chưa hoàn thành, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn tới cần tập trung: Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực công đi đôi với phát triển đồng bộ các yếu tố, các loại thị trường. Khuyến khích đổi mới sáng tạo, tận dụng khai thác cơ hội của công nghệ số. Xác định rõ ràng hơn các trọng tâm, trọng điểm cơ cấu lại nền kinh tế theo ngành, vùng, nhóm địa phương để tận dụng được lợi thế và tập trung nguồn lực, tạo đột phá ở một số lĩnh vực có tiềm năng. Cùng với đó, khắc phục sự thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp lý giữa các thành phần, các địa bàn kinh tế; tạo điều kiện và khuyến khích DN Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và chủ động dần nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị. Nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường nội lực, khả năng chống chịu với những cú sốc bên ngoài.
CÒN NHIỀU DƯ ĐỊA ĐỂ TIẾP TỤC CẢI THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ
Với chủ trương xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển phục vụ người dân và DN, tập trung tháo gỡ vướng mắc về thể chế, thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh cho khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã xác định xây dựng và hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, điều hành.
Qua hai năm chống chọi với đại dịch Covid-19, Chính phủ đã triển khai những quyết sách quan trọng một cách nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu của người dân và DN; hàng trăm nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư đã được ban hành để kịp thời gỡ khó cho DN, khơi thông nội lực của nền kinh tế. Trong đó, chính sách quan trọng nhất, phân cấp mạnh mẽ, mở đường cho Chính phủ để kịp thời ban hành và triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và DN đó là Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28-7 của Quốc hội ban hành tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV, giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định và tổ chức thực hiện một số biện pháp chưa được quy định hoặc khác với quy định trong các luật, pháp lệnh hiện hành để đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch Covid-19.
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để tháo gỡ khó khăn cho người dân và DN như: Nghị quyết 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19; Nghị quyết 105/NQ-CP về hỗ trợ DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19; và gần đây là Nghị quyết 128/NQ-CP ban hành quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”… Đây được coi là các giải pháp, chính sách mở đường, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động các biện pháp chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người dân và DN bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Những quyết sách nêu trên đã được cộng đồng DN và xã hội đánh giá là hết sức đúng đắn, sáng tạo và kịp thời của Chính phủ.
Qua phản ánh từ chuyên gia, cộng đồng DN cũng cho thấy, một trong những giải pháp tháo gỡ hiện nay chính là cải cách thể chế, đây chính là "gói hỗ trợ” còn dư địa lớn nhất . Thực tế hiện nay , quá trình triển khai các chính sách còn hạn chế. Việc triển khai của một số chính sách còn khá cứng nhắc, thiếu thống nhất ở một số địa phương, gây khó khăn cho đối tượng hỗ trợ.
Thực tế cho thấy trong các kiến nghị, các DN đều nhấn mạnh đến vấn đề đơn giản hóa các thủ tục, đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, nhất quán trong thực thi triển khai các quy định, chính sách trên toàn quốc; tính công bằng, minh bạch và thái độ phục vụ sát cánh cùng DN của đội ngũ cán bộ cấp thực thi. Đây là điều DN mong mỏi nhất từ phía các cơ quan chính quyền. Do đó, trong thời gian tới cần tiếp tục quán triệt quan điểm hỗ trợ tối đa cho DN phát triển; coi việc thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển DN và khôi phục nền kinh tế là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, cần sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị.
Theo Nguyễn Phi Long/Tạp chí Tuyên giáo