Một số giải pháp xây dựng nguồn lực văn hóa phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng

(Mặt trận) - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác văn hóa: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa có vai trò to lớn, quan trọng trong mọi mặt của đời sống, xã hội. Đặc biệt, hơn 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta luôn chú trọng phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, coi đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược để phát triển quốc gia - dân tộc hùng cường, thịnh vượng.

Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước

Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển đường lối xây dựng nền văn hóa mới phù hợp với tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định:

“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”1.

Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định:

“Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội”2.

Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế, chính trị đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới.

Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định nhất quán đường lối “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3.

Một trong những mục tiêu của Chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”4.

Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa với con người, nhấn mạnh vai trò của con người với tư cách là chủ thể, mục đích của phát triển văn hóa.

Phát triển văn hóa là phương tiện phát triển con người và ngược lại. Đồng thời, Đảng xác định rõ: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”5. Đồng thời, nhấn mạnh phải gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy Nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển.

Phát huy mạnh mẽ nguồn lực văn hóa phát triển bền vững đất nước

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới về dự Chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ nhất năm 2018_Ảnh: TTXVN 

Nguồn lực văn hóa được xem là nguồn lực đặc biệt, là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng ta xác định là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Tiếp thu tinh thần của thời đại, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định, văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, đời sống, phải biến văn hóa thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển.

Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng, năng lực của mỗi cá nhân và cộng đồng đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh để thúc đẩy xã hội phát triển. Nước ta với gần 100 triệu dân, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội.

Nguồn lực sản phẩm văn hóa là nguồn lực được kết tinh bởi vốn tài nguyên thiên nhiên ban tặng, được vật thể hóa thành các sản phẩm vật chất chứa đựng những giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh... với các sản phẩm văn hóa sáng tạo của con người.

Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại, trong đó đã có 8 di sản thế giới được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại (5 di sản văn hóa, 2 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp). Đây là những điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển du lịch, dịch vụ nhằm phát huy hiệu quả giá trị các di sản văn hóa, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư cho phát triển văn hóa, từng bước đưa các ngành thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển; quan tâm, chú trọng các hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật; ngành điện ảnh, truyền hình không ngừng chuyển biến cả về chất và lượng; đội ngũ những người làm công tác văn hóa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên.

Cùng với đó là những đổi mới trong cơ chế quản lý, tạo khung pháp lý cho các chủ thể trong các hoạt động văn hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để văn hóa phát triển bền vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội.

Chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa từng bước được nâng cao; xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa và phát triển.

Nhiều chủ trương, chính sách, quy định pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý và điều kiện để xây dựng con người. Nhiều chuẩn mực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của con người thời đại Hồ Chí Minh đã được đưa vào một số văn bản pháp luật, vào quy ước, hương ước tại các làng, xã, vào quy định, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội.

Một số giải pháp chủ yếu để phát huy các nguồn lực văn hóa nhằm phát triển bền vững đất nước

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa, của nguồn lực văn hóa, xây dựng con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ việc xây dựng, bồi dưỡng, phát triển nguồn lực văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, mà nòng cốt là ngành văn hoá.

Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng, đạo đức của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự giác cao, tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, dân tộc.

Phát huy vai trò của Nhân dân trong hoạt động thiết thực để vừa bảo tồn, gìn giữ, vừa phát huy những di sản văn hóa vô giá của cha ông; đồng thời, không ngừng nỗ lực sáng tạo để làm giàu thêm “vốn văn hóa” của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Hai là, bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa, nguồn lực văn hóa trong thời kỳ mới. Chú trọng đầu tư những thiết chế văn hóa phù hợp, thiết thực, hiệu quả; tạo sự dân chủ trong hoạt động sáng tạo, quảng bá, tiêu dùng, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa có chất lượng; khuyến khích năng lực sáng tạo của các văn nghệ sĩ và người dân. Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và trọng dụng nhân tài trong phát triển văn hoá.

Đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo của ngành văn hoá; phát triển mạnh mẽ và quản lý có hiệu quả lĩnh vực thông tin - truyền thông, báo chí - xuất bản, nhất là mạng xã hội, nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Ba là, tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.

Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Xây dựng lối sống văn hoá “thượng tôn pháp luật”, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”, nhân nghĩa.

Tôn vinh, nhân rộng các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Tăng cường và đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật có đủ phẩm chất đạo đức, chính trị và năng lực, kỹ năng chuyên môn trong ngành văn hoá, nghệ thuật, có sức lan tỏa, lôi cuốn công chúng trong sinh hoạt văn hóa lành mạnh.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.

Có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử có văn hoá trong cộng đồng và xã hội.

Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ứng xử đúng đắn với môi trường sống. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Huy động các nguồn lực đầu tư, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân. Có chế tài xử lý mạnh, đủ sức răn đe đối với những hành vi xâm hại văn hóa dân tộc; ngăn chặn, đẩy lùi tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động, những sản phẩm phi văn hóa trên các mạng xã hội.

Đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, các hành vi tiêu cực, cơ hội, vi phạm pháp luật, truyền bá tư tưởng sai trái, lối sống thực dụng, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Năm là, xử lý hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với phát triển kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.

Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa nhân văn trong tôn giáo, tín ngưỡng.

Tạo điều kiện, khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, nâng cao tính chuyên nghiệp, đồng thời phát triển sâu rộng văn học, nghệ thuật quần chúng trong cộng đồng xã hội.

Phát huy vai trò của báo chí, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên môi trường mạng, để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, hiện đại phù hợp với nền kinh tế số, văn hóa số, xã hội số, công dân số.

Sáu là, tăng cường phát triển du lịch, thương mại dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển sản phẩm du lịch mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Có cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển các ngành, nghề thủ công truyền thống. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm, chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo, có khả năng dẫn dắt các hoạt động văn hóa.

Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tạo nhận thức sâu sắc của toàn xã hội về vị trí, vai trò của ngành công nghiệp văn hóa trên một số lĩnh vực chủ yếu, phù hợp với lợi thế của đất nước.

Bảy là, phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của các cấp chính quyền trong quản lý, điều hành, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, đồng bào các dân tộc Việt Nam trong xây dựng, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực văn hóa cho sự phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

Cần xác định rõ chiến lược, chính sách bảo đảm phù hợp cho xây dựng nguồn lực văn hóa; chú trọng tạo dựng, hình thành và phát triển ngành công nghiệp văn hóa, trọng tâm là phát triển ngành du lịch, thương mại dịch vụ. Phát động và tổ chức thực hiện tốt, thiết thực, hiệu quả các phong trào, cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa trong các cộng đồng dân cư, gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp… bồi đắp lối sống đẹp của con người có văn hóa, nhân văn trong xã hội Việt Nam.

Chú thích:

1,2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II (Đại hội X, XI, XII). Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.119, 326 - 327, 671.

4,5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.115 - 116, 110.

Nguyễn Văn Hùng - 

Tiến sĩ, Nguyên Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương,

Uỷ viên Hội đồng tư vấn Văn hóa - Xã hội,

Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều