|
Sinh viên tham gia vòng thực hành trắc nghiệm trực tuyến tại Hội thi Olympic toàn quốc các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường” lần thứ V, năm 2023. Ảnh minh họa - Nguồn : TTXVN |
Các môn khoa học Mác - Lênin (Triết học Mác - Lênin, Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa Xã hội khoa học) là những môn học nằm trong khối kiến thức bắt buộc của khung chương trình giáo dục Đại học, Cao đẳng ở nước ta hiện nay. Các môn khoa học này có vai trò hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học cho sinh viên. Đồng thời, nó còn trang bị cho sinh viên kiến thức và bản lĩnh chính trị để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay. Đặc thù của các môn khoa học này là nội dung có tính tổng hợp, tính khái quát, tính trừu tượng cao với hệ thống các phạm trù, khái niệm đa dạng, phong phú, trừu tượng. Do đó, để đạt được mục tiêu môn học, ngoài việc giảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp, có sự liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn… còn đòi hỏi người học phải có ý thức tự học cao, có phương pháp tự học phù hợp. Vì thế, gắn liền với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì việc nâng cao ý thức tự học, phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của sinh viên đối với các môn học này là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
1. Ý thức tự học và vai trò của ý thức tự học đối với sinh viên
Tự học là một hoạt động tự giác, tích cực, gắn liền với ý thức, thái độ, động cơ, tình cảm, ý chí… của người học nhằm biến những kiến thức và kĩ năng chung của nhân loại thành của riêng mình. Từ đó, người học đào sâu kiến thức và mài giũa các kĩ năng, vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân. Ý thức tự học là sự tự giác trong học tập, là tự mình thực hiện tốt công việc học tập mà không cần sự tác động từ các yếu tố bên ngoài. Tự giác trong học tập còn là luôn tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập, là việc tự mình tiếp nhận, nghiên cứu và hoàn thiện tri thức của bản thân theo kế hoạch và mục tiêu mà mình đã đặt ra.
Có thể hiểu bản chất hoạt động tự học của sinh viên là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động sáng tạo của chính bản thân sinh viên dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên nhằm chiếm lĩnh những tri thức khoa học và thực hiện mục tiêu của bản thân. Hoạt động tự học được thúc đẩy bởi động cơ và hướng tới mục đích với đối tượng cụ thể, đồng thời được thực hiện thông qua hành động cụ thể bằng những thao tác trí tuệ linh hoạt, sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Hoạt động tự học có đặc trưng khác với các hoạt động khác. Mục tiêu của nó không phải là hướng vào làm biến đổi khách thể của hoạt động (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo)... mà chủ yếu hướng vào làm biến đổi chủ thể của hoạt động - tức là biến đổi chính bản thân người học. Tự học của sinh viên là hoạt động mang tính chất tự tìm tòi, tự phát hiện, tự nghiên cứu mức độ cao.
Như vậy trong hoạt động tự học, việc tích cực, độc lập nhận thức của sinh viên không tách rời vai trò tổ chức điều khiển của giáo viên đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học. Quá trình này là sự thống nhất giữa hoạt động hướng dẫn, định hướng của giảng viên với hoạt động tích cực, chủ động nghiên cứu, sáng tạo của sinh viên.
Đối với sinh viên, quá trình tự học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tự học giúp sinh viên làm chủ kiến thức một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tự tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn cũng như những nhiệm vụ học tập mới. Từ đó quyết định sự phát triển các phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập của bản thân.
Tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc, chủ động lựa chọn, định hướng cuộc sống của bản thân. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ. Do vậy, mỗi sinh viên cần xây dựng cho mình một thói quen, một phương thức tự học thích hợp.
Bên cạnh đó, tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao khả năng hiểu biết và tiếp thu tri thức mới của sinh viên. Tự học với sự nỗ lực, tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của tri thức, đồng thời quá trình đó cũng sẽ đặt ra cho sinh viên nhu cầu đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề mới gặp phải. Khi giải quyết được những vấn đề đó thì cũng đồng nghĩa với việc trình độ kiến thức, kỹ năng, tư duy của sinh viên đã có những bước phát triển mạnh mẽ.
Tự học còn giúp cho sinh viên có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp sinh viên thích ứng với mọi thay đổi của thực tiễn. Bằng con đường tự học, mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc. Do đó, việc tự học không chỉ giới hạn trong các giờ học trên lớp, trong giảng đường mà nó có thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, việc định hình phương pháp tự học mang một ý nghĩa rất quan trọng với sinh viên bởi vì kết quả học tập chưa phải là đích cuối cùng, mà những kiến thức và các kĩ năng đạt được trong quá trình tự học sẽ là hành trang cho sinh viên trong suốt cuộc đời sau này. Trong cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay, đòi hỏi sinh viên phải không ngừng tự học hỏi, tự tìm tòi để tự khẳng định mình và để hòa nhập với cộng đồng ngày càng văn minh tiến bộ. Tự học là nhu cầu thiết yếu của con người nói chung và sinh viên (lực lượng lao động chất lượng cao) trong xã hội hiện nay.
2. Thực trạng ý thức tự học các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên hiện nay
Hiện nay, trong chương trình đào tạo bậc Đại học ở nước ta, các môn khoa học Mác - Lênin là các môn học bắt buộc thuộc khối kiến thức đại cương. Các môn học này được sắp xếp trong 7 tín chỉ (105 tiết), được bố trí trong năm học thứ nhất và thứ hai. Mục đích của môn học nhằm giúp sinh viên nắm được những quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó, xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng... Với mục tiêu cụ thể như vậy, trong những năm vừa qua, công tác giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học, cao đẳng đã đạt được những thành công nhất định như: đã có giáo trình thống nhất, ngắn gọn hơn, phù hợp hơn với đối tượng người học không chuyên; giáo trình được biên soạn tỉ mỉ, cẩn thận hơn, làm cho nội dung lý luận gần với thực tế đổi mới của đất nước; phương pháp giảng dạy đã có nhiều đổi mới, có sự hỗ trợ từ phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại hơn; giảng viên được đào tạo chính quy, bài bản và thường xuyên được tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lý luận chính trị; số sinh viên đạt điểm trung bình và trên trung bình chiếm đa số, số học lại, thi lại ít đi; các cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được tổ chức đều đặn ở các cấp, các trường đã tạo được sân chơi và khơi dậy hứng thú tìm hiểu học tập các môn khoa học này trong sinh viên...
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, có không ít sinh viên “ngại” học các môn học thuộc chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Một bộ phận sinh viên ở các khối ngành không chuyên chưa nhận thức đúng đắn vai trò của các môn khoa học Mác - Lênin. Do đó, đối với họ, các môn học này chỉ là các môn phụ, không có nhiều tác dụng đối với chuyên ngành của cá nhân. Chỉ khi đến kỳ thi thì sinh viên mới vội vàng học. Phương pháp học tập là học tủ, học vẹt, thậm chí có suy nghĩ cần đạt được điểm qua.
Với nhận thức và mục tiêu học tập như vậy nên đã tác động lớn đến ý thức, phương pháp tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Với các môn học này, không ít sinh viên không chịu tìm tòi kiến thức mới, chỉ chờ đợi vào giảng viên, phụ thuộc vào giáo trình. Học một cách máy móc, rập khuôn, không có sự sáng tạo. Sinh viên chưa thực sự chủ động trong vấn đề học tập cũng như sắp xếp thời gian hay lên kế hoạch học tập cho riêng mình. Vì thế, mục đích rèn luyện và phát triển tư duy, trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học đã chưa đạt được.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng ngại phải làm bài tập hay chuẩn bị bài ở nhà. Mỗi khi giảng viên yêu cầu sinh viên làm bài tập ở nhà hay làm bài tập tại lớp, hoặc thảo luận thì còn có hiện tượng làm qua loa, đối phó. Điều đó cho thấy, ý thức tự học của sinh viên đối với các môn học này là chưa cao. Thậm chí có tình trạng, sinh viên không có giáo trình, không có tài liệu tham khảo, không lên thư viện để tìm tư liệu.
Để làm rõ hơn thực trạng học tập các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên hiện nay, tác giả đã tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi đối với 220 sinh viên năm thứ 2,3 của trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Kết quả cụ thể như sau:
Điểm thi các môn khoa học Mác - Lênin của sinh viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội năm 2022-2023 chủ yếu đạt ở mức điểm C, D (điểm trung bình), điểm B (điểm khá) ít, điểm A (điểm giỏi) rất ít, điểm F (trượt môn) vẫn còn, nhất là ở môn Triết học Mác - Lênin.
Về nguyên nhân dẫn đến kết quả học tập các môn khoa học Mác - Lênin còn chưa cao, khảo sát cho thấy nó do 2 nguyên nhân cơ bản:
Một là, nội dung các môn học này khó hiểu, trừu tượng;
hai là, do ý thức, tinh thần thái độ học tập của sinh viên chưa cao (thể hiện ở biểu đồ dưới).
Như vậy, có thể thấy, trong hai nguyên nhân trên, có một nguyên nhân khách quan và một nguyên nhân chủ quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan giữ vai trò quan trọng, 67,3% sinh viên được hỏi cho rằng, ý thức tinh thần, thái độ học tập chưa cao của sinh viên có tác động lớn đến kết quả học tập các môn học này.
Để làm rõ hơn đánh giá này của sinh viên, tác giả đặt câu hỏi: Bạn muốn giảng viên sử dụng phương pháp giảng dạy nào? Kết quả cho thấy, đại đa số sinh viên (75,5%) chỉ muốn giảng viên dùng phương pháp thuyết trình giảng giải. Đây là phương pháp giáo dục truyền thống, giảng viên nói, sinh viên nghe, chép một cách thụ động. Phương pháp này phù hợp với các môn khoa học Mác - Lênin vì nội dung của môn học trừu tượng, nhiều khái niệm, phạm trù khó. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng phương pháp này thì sinh viên không thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình trong học tập. Ngược lại, chỉ có số ít sinh viên chọn các phương pháp mang tính chủ động, tích cực, sinh viên phải hoạt động, làm chủ quá trình học tập như phỏng vấn (11,8%), sinh viên tự học, tự nghiên cứu (24,5%) như kết quả ở biểu đồ dưới
Để làm rõ hơn ý thức tự học của sinh viên nói chung và của môn Mác - Lênin nói riêng, tác giả đặt câu hỏi về mục tiêu và kế hoạch học tập của sinh viên. Kết quả cho thấy, đại đa số sinh viên có kế hoạch học tập nhưng chỉ có 46,8% thực hiện kế hoạch học tập đã đặt ra, còn lại là không thực hiện, thậm chí không có kế hoạch, mục tiêu học tập (4%). Chỉ có 43% sinh viên được hỏi có thời gian tự học cố định, còn lại là không có thời gian tự học cố định hoặc không tham gia tự học.
Như vậy, thông qua những số liệu khảo sát có thể thấy, số đông sinh viên chưa có ý thức, tinh thần tự học. Việc học tập các môn khoa học Mác – Lênin của sinh viên còn mang tính thụ động, đối phó. Thậm chí có số ít còn không quan tâm đến môn học, không nhận thức được vị trí, vai trò của môn học trong chương trình đào tạo (18,8%).
Từ thực trạng đó, có thể thấy có cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan dẫn đến tinh thần, ý thức, thái độ tự học của sinh viên đối với các môn học này còn chưa cao, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Do nhận thức về vị trí vai trò của môn học và ý thức của từng cá nhân sinh viên chưa cao. Đây là nguyên nhân căn bản dẫn đến kết quả học tập chưa cao, cũng như tính tích cực, chủ động đối với môn học của sinh viên chưa cao.
Thứ hai: Do vị trí, vai trò của môn học đối với chuyên ngành của sinh viên vẫn chưa có sự thống nhất. Chương trình học mặc dù đã thay đổi nhiều lần nhưng kết cấu và thời lượng các môn học vẫn còn bất cập, nội dung giảng dạy vẫn nặng nề, khô cứng và giống hệt nhau cho tất cả sinh viên thuộc các chuyên ngành khác nhau, cho nên nó chưa thật sự phù hợp với từng đối tượng sinh viên. Chẳng hạn, chương trình biên soạn cho sinh viên ngành nhân văn phải khác với ngành kỹ thuật, nghệ thuật, thể thao... có như vậy, mới phát huy được hứng thú học tập của sinh viên. Hơn nữa, do đây là môn Đại cương, không liên quan trực tiếp đến ngành nghề hoạt động sau này của sinh viên nên bản thân sinh viên không quá chú trọng. Từ đó hình thành mục tiêu dành cho môn học không cao. Tạo ra cách học đối phó, thiếu tính tích cực, chủ động.
Thứ ba: Do nội dung môn học trừu tượng. Đặc thù của các môn khoa học Mác - Lênin là trừu tượng, chứa đựng nhiều khái niệm, phạm trù mới, mang nhiều yếu tố chính trị… Do đó, sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp thu. Hơn nữa môn học lại được giảng ngay ở những năm đầu tiên của bậc Đại học, nên nhiều sinh viên còn bỡ ngỡ, chưa làm quen với nội dung kiến thức mới, phương pháp học tập mới, môi trường học tập mới…Từ đó, dễ sinh ra tâm lý chán nản, học mang tính chất đối phó.
Thứ tư: Ngoài ra, còn do phương pháp giảng dạy, cách thức kiểm tra đánh giá, công tác giáo dục tư tưởng chính trị của giảng viên, các đơn vị quản lý trong nhà trường chưa phù hợp. Sinh viên vừa bước lên giảng đường Đại học, đang quen với phương pháp thuyết trình, giảng giải, do vậy khi gặp các phương pháp giảng dạy mới, nội dung môn học trừu tượng, phương pháp kiểm tra đánh giá mới (tiểu luận, vấn đáp, tự luận mở…) cũng tác động không nhỏ đến ý thức tự học và kết quả học tập của sinh viên.
3. Giải pháp nâng cao ý thức tự học các môn khoa học Mác - Lênin cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay
Để giải quyết thực trạng trên, chúng ta cần phải có các nhóm giải pháp toàn diện, đồng bộ, cụ thể:
Nhóm giải pháp từ phía sinh viên. Trước hết, cần khẳng định rằng chính bản thân sinh viên đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao ý thức tự học của mình. Để có thể nâng cao ý thức tự học nói chung và ý thức tự học các môn khoa học Mác - Lênin nói riêng, sinh viên cần quan tâm thực hiện tốt những nội dung sau.
Thứ nhất, cần có nhận thức đúng, rõ ràng về mục đích, động cơ học tập. Đây là nội dung then chốt vì bản thân sinh viên phải xác định được mục đích học tập của mình là gì thì từ đó mới tạo được thái độ, động cơ và phương pháp học tập đúng đắn. Hơn nữa, trong phương thức đào tạo theo tín chỉ ở bậc đại học như hiện nay thì tự học là một yêu cầu bắt buộc và đòi hỏi ở mức cao, thiếu nó quá trình học tập khó có thể đạt được kết quả tốt. Bên cạnh đó, sinh viên cần nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của môn học Mác - Lênin trong chương trình đào tạo.
Đây là môn học nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho sinh viên. Nó sẽ giúp sinh viên rèn luyện được bản lĩnh chính trị, có cái nhìn khách quan, nắm bắt được quy luật vận động của xã hội để có thể thích ứng được với sự biến đổi nhanh chóng của xã hội hiện nay, cũng như có đủ bản lĩnh chính trị để phản bác, chống lại những quan điểm sai trái, thù địch nhằm vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, sinh viên cần nhận thức được vị trí, vai trò của môn học thì mới tạo được động lực tự học, tự nghiên cứu.
Thứ hai, phải hình thành thói quen học tập tích cực. Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần có khả năng chọn lọc kiến thức, có sự đam mê và học tập có quá trình. Tự học là một quá trình, vì thế nếu như sinh viên xây dựng được một thời gian biểu học tập cụ thể và hợp lí, quá trình tự học sẽ diễn ra thuận lợi, không bị gián đoạn, năng lực tự học vì thế cũng sẽ được tích lũy dần dần.
Trong quá trình tự học, sinh viên cần tìm hiểu kỹ, lựa chọn những tri thức và kỹ năng mà mình cần trang bị, tránh dàn trải, hời hợt. Bên cạnh đó, để khơi dậy đam mê cho sinh viên thì vai trò định hướng của giảng viên là rất quan trọng. Nếu như giảng viên thường đưa ra những vấn đề hay và khuyến khích sinh viên tìm hiểu sâu hơn về môn học, thì chắc chắn sẽ khích lệ tinh thần học tập của sinh viên hơn.
Thứ ba, rèn luyện kỹ năng tự học, xây dựng các phương pháp tự học hiệu quả. Để có được kỹ năng tự học tốt, sinh viên cần được trang bị và thực hành tốt các phương pháp học tập cần thiết như: phương pháp tìm tài liệu; đọc tài liệu; ghi chép; nghe giảng; sơ đồ hóa kiến thức... Cùng với đó là các phương pháp ghi nhớ thông tin, diễn đạt ý kiến, viết các đoạn văn khoa học; các phương pháp tự kiểm tra, đánh giá;... Đồng thời, sinh viên cũng cần được trang bị và thực hiện tốt các kỹ năng mềm như kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề,...
Nhóm giải pháp từ phía giảng viên. Giảng viên là nhân tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên. Vì thế, giảng viên không chỉ mang đến cho sinh viên kiến thức mà còn cả động lực và phương pháp phù hợp để họ học hỏi và áp dụng trong quá trình nâng cao năng lực tự học của bản thân.
Một là, giảng viên phải thường xuyên nâng cao chất lượng bài giảng, thể hiện ở nội dung học thuật và tính cập nhật của kiến thức chuyên môn cũng như thực tiễn. Đặc điểm các môn khoa học Mác - Lênin là có tính trừu tượng cao, tính khái quát cao, lại gắn liền với điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội, do đó, giảng viên ngoài việc nắm vững chuyên môn, lý thuyết thì cần phải nắm vững những kiến thức về kinh tế, chính trị xã hội để vận dụng vào bài giảng. Giúp sinh viên hiểu được tính thực tiễn của bài học, từ đó tạo sự hứng thú, kích thích tính chủ động của sinh viên trong quá trình học tập.
Hai là, áp dụng tốt các phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với đặc thù môn học và khai thác có hiệu quả các phương tiện giảng dạy hiện đại. Thực tiễn giảng dạy cho thấy, đối với các ngành thuộc khoa học xã hội, để giờ giảng đạt được hiệu quả và góp phần nâng cao năng lực tự học của sinh viên, phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: thuyết trình, nêu vấn đề, gợi mở, tạo tình huống, người học cùng tham gia,…Tuy nhiên, thuyết trình vẫn là phương pháp chủ đạo, nhưng phải là thuyết trình có đổi mới theo hướng khơi gợi sự tích cực, sáng tạo của người học, buộc người học phải luôn động não, nghĩa là trong thuyết trình có nêu vấn đề, phát vấn, tạo tình huống,... để người học suy nghĩ, tự lý giải, tự liên hệ, vận dụng vào thực tiễn, qua đó tạo hiệu ứng tốt cho lớp học và năng lực tự học của sinh viên cũng được trực tiếp bồi đắp.
Ba là, tăng cường tổ chức cho sinh viên thảo luận, đảm bảo đủ thời lượng học lý thuyết và thảo luận theo chương trình của môn học. Đây là một hình thức dạy và học tích cực thông qua trao đổi, chất vấn, đối thoại giữa giảng viên với sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên, qua đó giúp sinh viên nắm kiến thức lý thuyết và thực tiễn của môn học tốt hơn, nhất là buộc sinh viên phải tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu để phục vụ cho việc thảo luận. Trong trường hợp thảo luận nhóm, giảng viên nên chia nhóm nhỏ và hoạt động với cường độ cao để tất cả sinh viên đều động não, tích cực tìm hiểu và nghiên cứu. Hình thức này giúp cho năng lực tự học của sinh viên được cải thiện rõ rệt vì sinh viên phải tự nghiên cứu, hiểu rõ vấn đề và tự trình bày. Tuy nhiên, hạn chế của nó là không đủ thời gian cho tất cả sinh viên và thường chỉ những sinh viên đã có năng lực thực hiện.
Bốn là, thông qua hoạt động giảng dạy, giảng viên cần làm cho sinh viên có nhận thức đúng về vai trò to lớn của hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Có biện pháp thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học của sinh viên.
Nhóm giải pháp từ phía Nhà trường và các tổ chức đoàn thể. Đối với Nhà trường, trước hết cần tiếp tục hoàn thiện phương thức đào tạo theo tín chỉ; tổ chức những hội thảo khoa học, những buổi tọa đàm, trao đổi xoay quanh vấn đề nâng cao năng lực tự học của sinh viên, qua đó giúp sinh viên có thể học hỏi được những phương pháp và kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình tự học của bản thân.
Mặt khác, tăng cường hỗ trợ sinh viên về mặt tài liệu học tập bằng cách tiếp tục phát triển hệ thống thư viện đọc và thư viện online với nguồn tài liệu phong phú và cập nhật, khai thác thuận tiện và dễ dàng, đáp ứng được nhu cầu học tập của sinh viên.
Cùng với đó, hỗ trợ sinh viên về mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường học tập thông qua việc tiếp tục mở rộng không gian tự học (phòng đọc, phòng tự học,…) với môi trường yên tĩnh, tiện nghi và học thuật cần thiết; nâng cấp hệ thống trang thiết bị, bảo đảm hệ thống wifi, phòng máy dành cho tra cứu trực tuyến,… luôn vận hành tốt. Ngoài ra, có các chính sách, hoạt động cổ vũ phong trào tự học trong sinh viên, động viên, khen thưởng những tấm gương tự học. Tất cả những điều này sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, thu hút họ đến với không gian học tập, nghiên cứu của Nhà trường nhiều hơn, qua đó góp phần nâng cao năng lực tự học của sinh viên.
Đối với Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, trước hết cần quan tâm giúp sinh viên có được những nhận thức đúng đắn về mục đích học tập, về sự cần thiết phải tăng cường tự học ở bậc đại học. Thông qua hoạt động của các Câu lạc bộ (các buổi trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về các kỹ năng mềm, về kiến thức chuyên môn, về phương pháp cũng như kinh nghiệm học tập và nghiên cứu khoa học…) góp phần định hướng cho sinh viên xây dựng lộ trình học tập hướng tới công việc trong tương lai và đáp ứng yêu cầu xã hội. Những hoạt động này không chỉ giúp sinh viên mở mang kiến thức và rèn luyện kỹ năng mà còn kích thích họ có thêm hứng thú và động lực đối với hoạt động tự học, tự nghiên cứu.
TS. Hoàng Văn Thảo
Trường Đại học Xây dựng Hà Nội