Để cụ thể hóa vai trò, nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” (Quyết định số 217-QĐ/TW) và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” (Quyết định số 218-QĐ/TW). Đồng thời, xác định trong các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 3/10/2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về ban hành “Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2/2/2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.
Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1 Điều 9 quy định ''...Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội". Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã dành riêng 2 chương quy định cụ thể nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để thực hiện các quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 ngày 15/6/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTƯMTTQVN quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Việc quy định rõ vai trò, quyền, trách nhiệm đối với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các văn bản của Đảng, Hiến pháp và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 và các văn bản pháp luật đã mở ra một bước ngoặt lớn trong nhận thức về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội. Quan trọng hơn, đây là cơ sở chính trị để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của mình, đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn lịch sử hiện nay, góp phần quan trọng vào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Vai trò của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm cụ thể hóa và tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để bảo đảm việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách có tổ chức, theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định nhằm đạt hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tạo cơ sở pháp lý nhằm xác định rõ vai trò, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và mối quan hệ giữa các chủ thể đó trong quan hệ giám sát, phản biện xã hội.
Thứ ba, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tạo cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Nhà nước thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, pháp luật.
Thứ tư, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội theo các quy định của Đảng và Hiến pháp năm 2013.
Thứ năm, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nghĩa vụ “tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Với vai trò “đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có đầy đủ các điều kiện để giúp các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nghĩa vụ trên một cách đầy đủ, toàn diện và thực chất nhất.
Thứ sáu, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội có vai trò tạo cơ chế để Nhà nước huy động trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, nhất là các nhân sĩ, trí thức, cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài góp ý, phản biện xã hội dự thảo chủ trương, chính sách do cơ quan nhà nước chủ trì soạn thảo, bảo đảm các chính sách, pháp luật thực sự đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Thứ bảy, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong quá trình quản lý, điều hành đất nước; tổ chức các phong trào thi đua, các cuộc vận động nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp hưởng ứng các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
Nhu cầu và sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta xác định:
"Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ thực hiện trong thực tế đời sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước và cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện"1.
Thực vậy, theo quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng trong thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Trước hết phải khẳng định rằng, Nhà nước là sự thể hiện tập trung nhất trong việc thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền của mình cho Nhà nước thực hiện. Quyền dân chủ của nhân dân được tổ chức thực hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước. Nhưng để khắc phục sự tập trung quyền lực chỉ vào Nhà nước dẫn đến quan liêu, xa rời thực tiễn, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải mở rộng dân chủ. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện dân chủ bằng việc lắng nghe, tập hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh cho Đảng và Nhà nước, giúp cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được toàn diện, đúng đắn để dẫn dắt, quản lý xã hội phát triển. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là hết sức quan trọng trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Trong điều kiện đó, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò và ảnh hưởng rất quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện thể chế chính trị một Đảng duy nhất lãnh đạo nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách có tổ chức, kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước; xây dựng và không ngừng tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Cũng trong điều kiện duy nhất một Đảng Cộng sản lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ động viên tinh thần yêu nước, sáng tạo trong lao động của toàn dân cho công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không chỉ đơn thuần là Mặt trận hiệu triệu, động viên nhân dân, tổ chức các phong trào, mà phải thể hiện được vai trò và tính chất liên minh rộng rãi nhất đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Quyền lực nhà nước và thực hiện quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát. "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp"2. Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thông qua hoạt động của thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và thanh tra nhân dân; thông qua hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Song song với hoạt động giám sát trong nội bộ cơ quan nhà nước, còn có giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Bên cạnh đó, tính nhân dân, tính dân chủ và tính xây dựng trong hoạt động giám sát của Mặt trận cũng được thể hiện rất rõ. Khi phát hiện vi phạm trong quá trình giám sát, Mặt trận không trực tiếp xử lý mà kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các sai phạm, khuyết điểm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị đó.
Phản biện xã hội là một hình thức, biện pháp, cách thức tham gia xây dựng Đảng và chính quyền của nhân dân có tổ chức thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận theo những trình tự, thủ tục nhất định. Đây cũng là hoạt động thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và tham gia vào quản lý nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật. Phản biện xã hội còn được coi là "tiền kiểm soát" quyền lực nhà nước. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước hết là mang tính xã hội, cùng với đó là tính khách quan, khoa học, xây dựng, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, tính hiệu quả của văn bản và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Quá trình thực hiện những quy định của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội đã đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả nhất định. Đó là việc xác định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là chủ thể trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Tiếp tục khẳng định vị thế là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. Góp phần tăng cường và mở rộng quyền dân chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời gian qua chưa thể hiện rõ nét vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần được nghiên cứu về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn cả về pháp luật và thực hiện pháp luật để có các giải pháp hoàn thiện theo yêu cầu xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Để thực hiện giám sát và phản biện xã hội mang lại hiệu quả thiết thực đáp ứng yêu cầu bảo vệ dân chủ, đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải đổi mới toàn diện về nhận thức, về tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải xác định giám sát và phản biện xã hội là một chức năng cơ bản, từ đó đầu tư thoả đáng cho việc tổ chức thực hiện chức năng này trong hoạt động thực tiễn. Ngoài việc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục có những đề xuất, kiến nghị với Đảng và Nhà nước đối với sự định hướng nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể; trong đó đặc biệt coi trọng việc tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế pháp lý và những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội. Đặc biệt là hoàn thiện cơ chế nâng cao năng lực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác thời gian qua; thu hút sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân; sự kết hợp với các hình thức kiểm tra, giám sát, phản biện của các chủ thể khác; vai trò của truyền thông… để tạo nên sức mạnh trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tiêu chí bảo đảm hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tiêu chí hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như tiêu chí hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là mục tiêu cần đạt được, đây là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật trong từng giai đoạn nhất định và hướng tới mục tiêu dài hạn. Tiêu chí chung đánh giá sự hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hiểu là: Một hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phát huy vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ngoài việc tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ các tiêu chí về hoàn thiện pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” thì việc hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội cần có các tiêu chí cụ thể sau đây:
Một là, tính xã hội hóa của cơ chế pháp lý giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước; nếu không chịu sự giám sát của nhân dân thì bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước sẽ không còn. Về mặt nhà nước, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trật tự pháp lý, một phương thức tổ chức, vận hành, tự vận hành quản lý xã hội bằng pháp luật. Về mặt xã hội, cùng với sự phát triển dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thì mối tương quan giữa cơ chế pháp lý giám sát của Nhà nước và cơ chế pháp lý giám sát xã hội được chuyển hướng tăng cường và mở rộng quyền giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, nhà nước ta không những xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát trong bộ máy nhà nước, mà còn hoàn thiện xây dựng cơ chế pháp lý giám sát ngoài bộ máy nhà nước đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, cơ chế pháp lý giám sát xã hội, bảo đảm quyền lực nhà nước không lạm quyền, độc đoán, chuyên chế, mà còn được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo đảm cho quyền lực nhà nước tồn tại vì con người, do con người.
Hai là, tính chế ước của cơ chế pháp lý giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Mục đích chế ước quyền lực nhằm bảo vệ quyền, tự do, lợi ích của nhân dân và quyền con người. Nhưng sự chế ước quyền lực không phải chỉ chế ước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế ước quyền lực giữa các quyền lập pháp với hành pháp và với tư pháp, mà quyền lực nhà nước cần được kiểm soát và giới hạn nhằm loại trừ nghịch lý là quyền lực nhà nước của nhân dân, nhưng chính nó lại đe dọa nhân dân. Chế ước quyền lực nhà nước, nghĩa là nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết sách vì lợi ích nhân dân, của dân tộc, quốc gia. Chế ước quyền lực nhà nước, bảo đảm cho sự vận hành đúng hướng, bảo đảm quyền lực thực sự của nhân dân, tôn trọng và bảo về quyền tự do, dân chủ nhân dân; không làm cản trở sự vận hành của nhà nước, mục đích cuối cùng là tăng tính hiệu năng tổ chức, hoạt động bộ máy nhà nước ngày càng khoa học, hiệu quả hơn.
Ba là, tính dân chủ của cơ chế giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước; dân chủ và cơ chế giám sát, phản biện xã hội có mối quan hệ tác động và gắn chặt với nhau, bởi lẽ dân chủ nhằm bảo đảm quyền tham gia của nhân dân đối với quá trình quản lý nhà nước; nên giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước là một trong những điều kiện thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước được thiết lập và thực hiện về lợi ích của nhân dân, xã hội. Hiện nay, nhu cầu về sự phát triển của dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và sự phát triển trong tiến trình mở rộng dân chủ, cơ chế pháp lý giám sát, phản biện xã hội ngày càng được củng cố, tăng cường, hoàn thiện; do đó việc chuyển một số chức năng trong hệ thống giám sát trong bộ máy nhà nước, cho hệ thống giám sát xã hội, góp phần nâng cao chất lượng, trách nhiệm hoạt động của Nhà nước.
Bốn là, bảo đảm đầy đủ, toàn diện của pháp luật giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thể hiện tính toàn diện cả về mặt hình thức, cả về nội dung, bảo đảm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thực hiện giám sát và phản biện xã hội trong tham gia xây dựng Nhà nước.
Năm là, bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Việc xây dựng, hoàn thiện lĩnh vực pháp luật về mối quan hệ này phải bảo đảm sự đồng bộ giữa Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân với Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan nhà nước cụ thể hóa Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp và thống nhất với các lĩnh vực pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Sáu là, tính khả thi của pháp luật nói chung và tính khả thi của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là khả năng "đi vào cuộc sống", được đời sống xã hội đón nhận; đáp ứng được nhu cầu thực tại và xu hướng xây dựng, mở rộng dân chủ; thực thi hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Pháp luật phải có hiệu lực thi hành và hiệu quả thiết thực trong thực tế. Pháp luật phải có tính ràng buộc trên cơ sở phân công, phối hợp, cộng đồng trách nhiệm giữa các bên trong mối quan hệ giám sát, phản biện xã hội.
Bảy là, bảo đảm tính quy phạm chặt chẽ, công khai, minh bạch của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Các quy phạm pháp luật phải ngắn gọn, chặt chẽ, dễ hiểu, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tế; không tạo ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến khó khăn trong thực hiện. Vì vậy, bên cạnh việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, cần thể chế hóa kịp thời, đầy đủ đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành pháp luật; tránh sự sao chép, chuyển hóa giản đơn, chung chung, nặng tính hô hào, để rồi thực hiện cũng được, không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc cũng không ai chịu trách nhiệm, dẫn tới tình trạng hiệu lực pháp luật bị suy giảm, không bảo đảm tính thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật cần công khai, minh bạch, đối với toàn xã hội, thể hiện bản chất nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ đó làm cơ sở pháp lý, cơ sở nhận thức, chỗ dựa, niềm tin của nhân dân trong thực thi dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Yêu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thứ nhất, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải bảo đảm sự lãnh đạo và sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng. Yêu cầu này xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam, trong điều kiện một Đảng lãnh đạo, mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành. Nhưng đồng thời phải phát huy dân chủ, khơi dậy trí tuệ, sức sáng tạo trong nhân dân.
Thứ hai, các quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện các quy định về vai trò, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về các quyền con người, quyền công dân đã được quy định tại Hiến pháp. Để triển khai thi hành những quy định này của Hiến pháp, không thể không hoàn thiện cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như một công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện. Đồng thời, việc hoàn thiện cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải bảo đảm cụ thể hóa tinh thần và nội hàm các quy định về dân chủ, về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, cần có các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, chặt chẽ xác định rõ quy trình, thủ tục giám sát, phản biện xã hội một cách thống nhất, đồng bộ buộc mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành. Hiện nay, những quy định về giám sát của Mặt trận trong Hiến pháp, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật khác mới chủ yếu là những quy định chung chưa có những quy định cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hậu quả pháp lý, cũng như những điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận.
Thứ tư, cơ chế giám sát, phản biện xã hội phải góp phần đổi mới phương thức phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận và giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan nhà nước, cùng với việc tăng cường sự tham gia của nhân dân. Cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải góp phần thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong việc phối hợp giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, những vấn đề lớn liên quan đến quyền và nghĩa vụ đông đảo các tầng lớp nhân dân thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò chủ trì, điều phối các tổ chức thành viên hữu quan cùng tham gia. Các vấn đề chuyên biệt liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của tổ chức chính trị - xã hội nào thì tổ chức đó tiến hành phản biện hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên khác cùng tham gia. Tuy nhiên công tác giám sát và phản biện xã hội cũng cần phải có sự nghiên cứu, chọn lọc, xác định được trọng tâm, trọng điểm.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về giám sát, phản biện xã hội phải bảo đảm các điều kiện về tổ chức bộ máy và nhân sự cũng như các điều kiện khác, bảo đảm cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp có đủ năng lực để thực hiện có hiệu quả. Quan tâm xây dựng, củng cố bộ máy cơ quan chuyên trách, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải huy động sự tham gia của các thành viên, các cá nhân tiêu biểu, các Hội đồng tư vấn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, lực lượng cộng tác viên và đoàn viên, hội viên là những chuyên gia trên các lĩnh vực.
Muốn hoàn thiện cơ chế giám sát, phản biện xã hội có hiệu quả, thiết thực, pháp luật cũng cần phải có cơ chế, tổ chức hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hợp lý, chặt chẽ. Đồng thời, cần có quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế giám sát tại khu dân cư và các bảo đảm cần thiết cho hoạt động của các Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư. Thống nhất hành động của các hội quần chúng, tập hợp và phát huy vai trò những người tiêu biểu có uy tín ở cơ sở để thông qua họ động viên nhân dân tham gia hoạt động giám sát do Mặt trận các cấp tổ chức và phát huy quyền làm chủ, đấu tranh với những biểu hiện tham nhũng của cán bộ, công chức ở cơ sở.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải từng bước thực hiện và khẳng định vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là đối với những chủ trương, chính sách lớn liên quan trực tiếp đến vấn đề quốc kế dân sinh, những chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong thời gian tới, Quốc hội và các cơ quan, tổ chức có liên quan cần sớm nghiên cứu, ban hành Luật Giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong đó, quy định cụ thể, toàn diện về cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cụ thể là về thẩm quyền, thủ tục, trình tự thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội; hậu quả pháp lý của việc giám sát, phản biện xã hội; nội dung, hình thức, phạm vi, cơ chế cụ thể và điều kiện đảm bảo thực hiện… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thể thực hiện tốt và có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội.
Phạm Thu Hương
ThS, Phó Chánh Văn phòng UBTW MTTQ Việt Nam
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.