Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến chủ trì Hội nghị "Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội" ngày 25/5/2022.
Các tiền đề để kiểm soát quyền lực
Phân công lao động xã hội là tiền đề kiểm soát quyền lực
Trong hệ thống chính trị Việt Nam có các thiết chế: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, sự phân công lao động xã hội trong một chừng mực nhất định đã được xác lập trong Hiến pháp. Sự phân công lao động ở đây thông qua việc xác định các chức năng của các thiết chế trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị để bảo đảm sự thống nhất, trật tự của hệ thống đòi hỏi sự kiểm soát lẫn nhau của các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
Đảng kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước và các thiết chế khác trong việc chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; Nhà nước kiểm soát các thiết chế trong hệ thống chính trị bằng phương thức xác định vị trí, vai trò của các tổ chức đó trong Hiến pháp và bằng quy định.
Trong cơ cấu quyền lực nhà nước theo truyền thống, được chia thành: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhiều quốc gia trên thế giới còn coi quyền lực của các cộng đồng lãnh thổ - tự quản địa phương như một nhánh của quyền lực, còn ở Việt Nam thì hòa vào cùng quyền lực nhà nước, bởi các thiết chế của cộng đồng lãnh thổ đều là những thiết chế nhà nước. Để bảo đảm sự cân bằng quyền lực, tránh xu hướng lạm quyền, tập trung quyền lực đòi hỏi có sự kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực nhà nước, giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương và ngược lại, mặt khác đòi hỏi sự độc lập của các thiết chế nhà nước, giữa lập pháp, hành pháp và đặc biệt là tư pháp, đồng thời bảo đảm sự độc lập, tự quyết, tự quản của chính quyền địa phương thì mới bảo đảm được hiệu quả, hiệu lực của kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu của nhà nước và của xã hội
Trong đời sống nhà nước và xã hội, bất kỳ một thiết chế, thể chế nào cũng đều có giá trị nhất định của nó, đều do con người sáng tạo và để phục vụ con người. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp những phương thức sinh hoạt và biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Lần đầu tiên thuật ngữ “phân quyền” đã được sử dụng chính thức trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Thực tiễn sự phân quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan tối cao của quyền lực đã được xác lập qua Hiến pháp, các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nhà nước và xã hội, thể hiện qua những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.
Khi sử dụng bộ máy công lực, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, cũng dễ xuất hiện khả năng lạm dụng quyền lực, hoặc vì một lý do khách quan, chủ quan nào đó mà cơ quan công quyền, mà các nhân viên nhà nước không chấp hành pháp luật, ảnh hưởng tới quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, mà nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ. Vì vậy, bản thân nhà nước có nhu cầu kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức, hay nhân viên nhà nước nói chung, nhằm phát hiện những sai phạm của cơ quan nhà nước, những khiếm khuyết của chính bản thân bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên nhà nước để tự hoàn thiện mình.
Nhà nước là một thiết chế thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội - tổ chức các quá trình kinh tế - xã hội, thông qua các chính sách, pháp luật do mình đặt ra vì vậy, bản thân nhà nước xuất hiện nhu cầu hoàn thiện chính sách, pháp luật. Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động kiểm soát việc thực hiện chính sách, pháp luật để đánh giá mức độ thực hiện, sự hoàn thiện, sự phù hợp của chính sách, pháp luật với các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, để hoàn thiện chính sách, pháp luật. Đây là yêu cầu đòi hỏi, nhu cầu của chính nhà nước để tự hoàn thiện mình, để thích nghi với những thay đổi của các quá trình quản lý của đối tượng, khách thể quản lý không ngừng vận động phát triển.
Kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước là nhu cầu của chính bản thân của nhà nước, của xã hội nhằm bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho sự hoàn thiện nhà nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và hoạt động giám sát của Nhân dân
“Lấy dân làm gốc” là nguyên tắc chỉ đạo trong mọi hoạt động của cơ quan nhà nước
“Lấy dân làm gốc” nghĩa là các cơ quan nhà nước phải hướng mọi hoạt động của mình để phục vụ Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Tất cả cán bộ, nhân viên trong bộ máy nhà nước đều là công bộc của Nhân dân. Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Các cơ quan nhà nước phải chăm lo, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
Dựa vào dân chính là thể hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc”. Kế thừa và phát triển tư tưởng trọng dân, dựa vào sức dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của Nhân dân trong xây dựng chính quyền. Nếu biết huy động và tổ chức sức mạnh của Nhân dân thì sức mạnh đó trở thành vô địch. Trong bối cảnh đất nước còn hạn chế về nguồn lực, cần phải biết huy động tài lực, trí lực, vật lực, nhân lực từ Nhân dân để xây dựng chính quyền. Tuy nhiên, phải biết “khoan thư sức dân”, huy động đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp, không phung phí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong quá trình chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của đất nước Việt Nam độc lập. Hiến pháp năm 1946 chỉ rõ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân” (Điều 1), “tất cả công dân Việt Nam… đều được tham gia chính quyền” (Điều 7). Các cơ quan nhà nước phải thấm nhuần nguyên tắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Phải lôi cuốn Nhân dân tham gia trực tiếp vào công việc chính quyền, vào công tác quản lý nhà nước. Khi Nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương, các cơ quan nhà nước hiểu hơn nguyện vọng của Nhân dân, từ đó phục vụ Nhân dân tốt hơn.
“Lấy dân làm gốc” nghĩa là phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Phải tuyệt đối tôn trọng Nhân dân, không được quan cách, ra lệnh với Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ rằng phải yêu dân, kính dân, phải có ý thức tôn trọng Nhân dân, phải thấy được vai trò và vị trí của Nhân dân trong xây dựng chính quyền. Muốn tôn trọng dân thì đầu tiên phải gần dân, lắng nghe dân, từ đó hiểu dân, yêu dân và kính dân.
Mọi cán bộ phải rèn luyện và không có hành vi hoặc lời nói khiến người dân hiểu lầm rằng cán bộ thiếu tôn trọng dân. Tư tưởng trọng dân được thể hiện rõ trong lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, đó là phải trung thành với đất nước, hiếu nghĩa với Nhân dân. Giúp đỡ Nhân dân cũng là biết tôn trọng dân.
Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng chính quyền
Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân chính là biểu hiện của tư tưởng lấy dân làm gốc. Nhà nước chỉ phát huy dân chủ cao nhất khi Nhà nước là của Nhân dân. Chế độ dân chủ tức là dân làm chủ và do đó: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”2.
Như vậy, quyền làm chủ của Nhân dân thể hiện ở việc Nhân dân tham gia vào bầu đại diện thay mình điều hành chính quyền các cấp, tổ chức các đoàn thể các cấp tham gia xây dựng chính quyền, tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, tham gia các hoạt động quản lý nhà nước. Nhân dân “cần phải hǎng hái làm tròn nghĩa vụ của mình trong mọi công việc kháng chiến, cứu nước, xây dựng nước nhà”3. Phát huy dân chủ phải gắn liền với kỷ cương và đề cao trách nhiệm công dân. Nhân dân có quyền làm chủ nhưng phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, “Làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ muốn ăn bao nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”4. Nhân dân giữ đúng ý thức, đạo đức, trách nhiệm công dân.
Muốn phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phải nâng cao năng lực làm chủ của Nhân dân thông qua nâng cao dân trí, bồi dưỡng văn hóa chính trị, động viên Nhân dân tham gia tích cực các công việc ở địa phương trong sản xuất và trong hoạt động của chính quyền, phát huy sự sáng tạo trong dân, huy động nguồn lực trong dân, khuyến khích thực hành tiết kiệm. Muốn xây dựng chính quyền, phải liên hệ chặt chẽ với Nhân dân và khuyến khích, động viên Nhân dân sử dụng quyền công dân và làm tròn nghĩa vụ công dân.
Trong bài nói chuyện với Hợp tác xã Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, Hà Nội, ngày 10/2/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ, công chức phải tự mình nêu gương, “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình”5. Để làm được điều đó, cán bộ, công chức phải “giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng”6, qua đó mới vận động được nguồn lực từ mỗi người dân và góp thành lực lượng toàn dân để thực hiện những công việc mà Nhà nước giao phó.
Nhân dân tham gia vào quá trình ban hành và thực thi quyết định, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước
Nhà nước không phải và không thể là chủ thể duy nhất có vai trò giải quyết mọi vấn đề, mà phải hợp tác với Nhân dân, vì người dân “biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà... những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”7. Nhà nước và Nhân dân cùng chia sẻ, cùng ra quyết định để giải quyết vấn đề. Mọi công dân được khuyến khích và huy động tham gia công việc của Nhà nước. Khi người dân tham gia nhiều hơn, các quyết định của các cơ quan nhà nước phản ánh và đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của Nhân dân, qua đó tăng sự hài lòng đối với cơ quan nhà nước.
Nhân dân tham gia công việc quản lý nhà nước thể hiện một Nhà nước dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Bảo đảm để Nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.
Quá trình xây dựng pháp luật phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân. Là người chỉ đạo biên soạn Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của Nhân dân trong xây dựng chính quyền, trong đó có tham gia vào việc ra quyết định và thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước.
Điều 32 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra Nhân dân phán quyết”. Nhằm phát huy vai trò của Nhân dân trong xây dựng pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu sau khi dự thảo Hiến pháp năm 1959 “cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi”8. Các cơ quan nhà nước phải tiếp thu ý kiến của Nhân dân trong quá trình ra quyết định. Các quyết định của cơ quan nhà nước đều phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, sao cho có lợi cho Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng, để các chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống và được thực hiện hiệu quả, “cách làm là: dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân”9 vì mọi nguồn lực mà Nhà nước có thể hoạt động đều được huy động từ dân. Khi bàn về hoạt động của chính quyền địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ các ủy ban nhân dân phải “dựa vào ý nguyện của dân chúng”10. Để các quyết định của Nhà nước đáp ứng được ý nguyện của Nhân dân, phải bàn bạc với Nhân dân để xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát theo dõi quá trình thực hiện và tổng kết rút kinh nghiệm. Dù thực hiện công việc có khó khăn đến bao nhiêu, dù nguồn lực có thể bị khan hiếm, nhưng chỉ cần có sự tham gia đồng lòng của Nhân dân, quyết định có thể được thực thi trong thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của Nhân dân trong giám sát hoạt động và quá trình thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước. Nhân dân có quyền góp ý với Chính phủ, có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ, như thế là giúp đỡ Chính phủ. Nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với đại biểu của mình và nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm, Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Tất cả các cơ quan nhà nước phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của Nhân dân. Để Nhân dân thực hiện tốt quyền giám sát, cần thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến nâng cao dân trí, làm cho Nhân dân có ý thức chính trị trong tham gia công việc của chính quyền các cấp, tham gia vào các đoàn thể ở địa phương cùng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
|
Ảnh minh họa: Các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV_Ảnh: Tư liệu |
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò và hoạt động giám sát của Nhân dân
Cụ thể hóa quyền làm chủ của Nhân dân
Để có hệ thống chính trị vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trên các lĩnh vực, ngoài đổi mới nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng, thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị, đạo đức, nâng cao chất lượng đảng viên… thì công tác giám sát lại khẳng định ở tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua kiểm tra chặt chẽ, giám sát sát sao của các cấp ủy đảng, Ủy ban Kiểm tra các cấp và các tầng lớp nhân dân đã kịp thời phát hiện những khó khăn, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách, từ đó giúp tổ chức đảng tự hoàn thiện trong quá trình xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của Nhân dân.
Trách nhiệm của cấp ủy
Với nhiệm vụ đổi mới công tác xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hệ thống văn bản về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, như: Quy định số 30 của Ban Chấp hành Trung ương quy định thi hành Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Quy định số 86 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng; Quy định số 102 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy định số 109 của Ban Bí thư về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên; Quyết định 217 về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218 quy định về việc tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân... Đặc biệt, trong các quy định cách thức giám sát cho cấp ủy thể hiện rất rõ: Các đảng viên và chi bộ đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng. Cấp ủy viên, nhất là cán bộ chủ chốt, có chương trình công tác ở cơ sở, tiếp xúc, lắng nghe ý kiến và trả lời chất vấn của đảng viên và Nhân dân. Có thể nói, việc hoàn thiện dần các cơ chế trong kiểm tra, giám sát chính là cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp và Nhân dân phát huy hiệu quả vai trò kiểm tra, giám sát. Từ đó, làm rõ được những kết quả, ưu điểm để phát huy, đồng thời sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm, khắc phục hậu quả trong các mặt công tác, các hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền.
Khuyến khích người dân tham gia giám sát
Hoạt động giám sát của Nhân dân là sự thể hiện cụ thể của việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, của chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Chính vì vậy, thời gian qua các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã phát huy hiệu quả vai trò giám sát của Nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Rõ ràng, công tác kiểm tra, giám sát khi có sự quyết liệt từ cơ chế, người đứng đầu các cấp đến sự vào cuộc sâu sát của Nhân dân sẽ mang đến kết quả cho quá trình phát triển của địa phương nói riêng, sự nghiệp của đất nước, của Đảng, của Nhân dân nói chung. Phát hiện kịp thời những sai phạm trên các lĩnh vực, kể cả cán bộ, đảng viên để gióng lên “hồi chuông” ngăn ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, cốt để người khác không vi phạm chính là mong muốn lớn nhất của các cấp ủy đảng và Nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát.
Xây dựng cơ chế để Nhân dân giám sát
Lắng nghe tiếng nói của dân
Nhằm phát huy tinh thần dân chủ, vai trò giám sát của Nhân dân thì một trong những giải pháp quan trọng chính là các cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu phải thật sự lắng nghe dân thông qua việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của Nhân dân, nhất là về những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính từ việc lắng nghe dân một cách nghiêm túc và chân thành sẽ tạo được lòng tin trong Nhân dân thông qua các phản ánh, kiến nghị trực tiếp đến người đứng đầu cấp ủy.
Chính từ việc luôn lắng nghe, kịp thời giải quyết những băn khoăn, bức xúc của Nhân dân đã góp phần tạo mối quan hệ ngày càng gắn bó giữa Nhân dân với Đảng, chính quyền các cấp nói chung và cán bộ, đảng viên nói riêng. Thời gian qua, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trên cả nước có nhiều chuyển biến tích cực bởi lãnh đạo ở nhiều cấp, nhiều nơi đã luôn thực hành ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân.
Phát hiện sai phạm từ giám sát của dân
Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ gián tiếp thông qua đại diện là các cơ quan nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Theo đó, các đợt tiếp công dân, tiếp xúc cử tri, đối thoại với lãnh đạo các cấp được xem là kênh thông tin hữu hiệu giúp người dân phản ánh kịp thời những vấn đề bức xúc từ việc giám sát hoạt động của chính quyền và cán bộ các cấp. Đồng thời, qua kênh này, các cơ quan dân cử cũng nắm bắt được nguyện vọng của Nhân dân và đưa những nguyện vọng ấy đến đúng cấp có thẩm quyền xử lý.
Để Nhân dân mạnh dạn giám sát
Có thể thấy, bên cạnh kết quả đạt được, công tác giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của Nhân dân còn những hạn chế, khó khăn nhất định. Dù đã có các quyết định, quy định từ Trung ương nhưng công tác tổ chức triển khai đến người dân vẫn chưa thật tốt nên việc triển khai giám sát cá nhân cán bộ, đảng viên còn lúng túng về phương pháp, cách làm. Hoạt động giám sát của Nhân dân hiện nay chủ yếu thể hiện qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; tuy nhiên hoạt động của tổ chức này ở nhiều nơi vẫn còn hạn chế, hình thức…
Ngoài ra, những cơ chế bảo vệ người tố cáo tiêu cực dù đã được ban hành nhiều nhưng vẫn chưa đủ tạo lòng tin đối với quần chúng nhân dân trong việc phản ánh những sai phạm của cán bộ, đảng viên đến cấp có thẩm quyền.
Rõ ràng, để công tác giám sát thật sự hiệu quả và tạo được lòng tin, sự đồng hành của Nhân dân thì các cấp ủy đảng, cơ quan chức năng cần phải quyết liệt trong xử lý, chủ động sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho thôi chức đối với cán bộ, đảng viên làm việc thiếu hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp. Chẳng hạn, qua đợt Đại hội Đảng cấp cơ sở và cấp trên cơ sở trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vừa qua, có một số cán bộ được cơ cấu, quy hoạch vào các cấp ủy ở nhiều địa phương nhưng có số phiếu tín nhiệm hoặc không đạt, hoặc đạt rất thấp, không được đưa vào giới thiệu bầu cấp ủy. Đây cũng là vấn đề mà cá nhân cán bộ nói riêng, những người làm công tác nhân sự nói chung cần rút kinh nghiệm sâu sắc, tự soi rọi bản thân để có được sự tín nhiệm của tập thể và Nhân dân.
Tiếp tục tăng cường kiểm tra giám sát, phản biện xã hội
Đất nước đang chuyển mình trong giai đoạn với nhiều cơ hội mà cũng không ít thách thức, cũng có nghĩa là cả nước nói chung, các địa phương nói riêng phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần kiên quyết hơn nhằm tạo sự vững mạnh của tổ chức Đảng nói chung, sự chuyển biến tích cực trong công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội nói riêng.
Một trong những giải pháp được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nhấn mạnh nhằm phát huy vai trò giám sát của Nhân dân là phát huy được vai trò và trí tuệ của các nhân sĩ, trí thức, cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, tôn giáo, chuyên gia trên các lĩnh vực. Ngoài ra, cần có sự tham gia tích cực của các cơ quan truyền thông trong hoạt động giám sát Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên và Nhân dân. Phát động toàn xã hội tích cực tham gia công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; tiếp tục nâng cao vai trò hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, Ban Công tác Mặt trận ở cơ sở.
Từ tình hình thực tế cho thấy, những giải pháp này là cần thiết. Tuy nhiên, vai trò giám sát của Nhân dân thật sự được phát huy hiệu quả, thiết nghĩ cũng phải chú trọng xây dựng cơ chế giám sát của Nhân dân và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong đó, cần cơ chế cụ thể để thực hiện các Quyết định 217 và Quyết định 218 của Bộ Chính trị nhằm tạo điều kiện cho Nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia công việc của Đảng và công khai các chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và Nhân dân giám sát, kiểm tra.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 431.
7,9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 502, 533, 556.
2,6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr. 232, 233.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr. 264.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr. 287.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập15, tr. 293.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr. 511.
10. Trần Đình Huỳnh: Hồ Chí Minh - kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành chính nhà nước Việt Nam, Nxb. Lao động - Xã hội, HàNội, 2005, tr. 245.
NGUYỄN QUỐC SỬU - Phó Giáo sư, Tiến sĩ,
Phó Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia