Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là khẳng định mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế; sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước; tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế. Đồng thời, hiện thực hóa hệ mục tiêu này còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế; thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm phòng thực hành giáo dục STEM tại Trường Trung học phổ thông Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp_Ảnh: TTXVN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) đã bổ sung đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vừa như là hệ mục tiêu, vừa như là đặc trưng bản chất đầu tiên của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Hệ mục tiêu này bao gồm các thành tố dân giàu về vật chất, tinh thần; nước mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao; xã hội dân chủ, ở đó người dân là chủ thể, vị trí trung tâm; mọi người dân có cuộc sống công bằng, văn minh. Các thành tố trong hệ mục tiêu này có quan hệ, tác động, bổ sung cho nhau, phản ánh khá đầy đủ các mặt đời sống của xã hội mà chúng ta vươn tới. Do vậy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, được thể hiện qua những nội dung sau:

Một là, khẳng định mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế.

Đảng ta không có mục đích nào khác là phục vụ sự nghiệp giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột, lầm than, đói khổ, bất công; phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc. Nhưng giải phóng con người, giải phóng dân tộc không chỉ dừng lại ở giải phóng, mà còn phải thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chỉ trên cơ sở thực hiện được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì con người và dân tộc mới được giải phóng thực sự, triệt để trên thực tế. Nếu dân tộc được giải phóng nhưng người dân vẫn đói, vẫn rét, vẫn thất học, ốm đau, bệnh tật không được chữa thì độc lập dân tộc cũng vô nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(1). Chính vì vậy, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(2). Đồng thời, giành được độc lập, tự do rồi thì phải xây dựng một xã hội công bằng, hợp lý: “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(3). Nghĩa là thực hiện phương châm “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”(4). Thực hiện được những nguyên tắc này là góp phần thực hiện được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghĩa là khẳng định được mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế. 

Hai là, khẳng định sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của của Đảng.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(5). Do vậy, khi hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên thực tế sẽ chứng tỏ Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta là đúng đắn. Khác với các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng và các tư tưởng tôn giáo cũng mong cho con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một nghĩa nào đó là cũng mong cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Song các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng và các tư tưởng tôn giáo vẫn chỉ là mong ước, khát vọng. Đảng Cộng sản Việt Nam bằng chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo toàn thể dân tộc bằng các chương trình, chiến lược, kế hoạch, giải pháp để hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trên thực tế. Hiện thực được hệ mục tiêu này là vì Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta là đúng đắn. Nghĩa là, Cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực tiễn khu vực, quốc tế và có cơ sở khoa học, phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của thực tiễn đất nước, khu vực và thời đại, phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn của quần chúng nhân dân. Cũng chính vì vậy, bản thân hệ mục tiêu này cũng như các giải pháp, con đường, cách thức hiện thực hóa hệ mục tiêu này luôn có sự thống nhất, gắn bó mật thiết giữa cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học. Khách quan mà nói, có những lúc, chúng ta có sai lầm, khuyết điểm, nhưng với tinh thần thẳng thắn, khách quan, trung thực, Đảng ta đã sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, giữ vững bản lĩnh cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; trong đó, có sự lãnh đạo thực hiện hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua đó, khẳng định sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của của Đảng.

Ba là, khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước.

Việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thêm khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi, của mọi sự phát triển của đất nước. Đảng ta nhận thức rõ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại rút ra bài học “trong mọi công việc của Đảng phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6). Do vậy, Đảng ta đã phát huy, lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định đúng đắn rằng: “Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”(7). Bởi lẽ, nhân dân ta nhận thấy hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, đúng đắn, hợp lý của nhân dân. Do vậy, nhân dân tích cực tham gia hiện thực hóa hệ mục tiêu này. Qua đó, khẳng định sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước.

Bốn là, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế.

Hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” sẽ khẳng định được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế. Hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã thể hiện được những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta hướng tới. Hệ mục tiêu này thể hiện một xã hội “thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người(8); “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(9); “sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội(10); “một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm(11)... Rõ ràng, hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cho thấy chủ nghĩa xã hội là xã hội ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó và đương thời. Chủ nghĩa tư bản cũng đề ra các giá trị mà nó hướng tới và phải khách quan thừa nhận rằng, “chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”(12). Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Bởi lẽ: “Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó”(13). Do vậy, việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” sẽ khẳng định được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các xã hội khác, nhất là chủ nghĩa tư bản trên thực tế.

Năm là, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện thực được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm xã hội công bằng, dân chủ cho nhân dân trên thực tế. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Niềm tin là sự tin tưởng, hy vọng vào điều có căn cứ, cơ sở khoa học, thực tiễn. Nhân dân chỉ tin tưởng vào Đảng khi Đảng mang lại cuộc sống thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng cho nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”(14). Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là xuất phát từ nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng chân chính, đúng đắn, hợp lý của nhân dân và thực hiện mục tiêu phục vụ nhân dân. Sở dĩ, nhân dân ta một lòng, một dạ đi theo Đảng, bảo vệ Đảng khi có khó khăn, chia sẻ với Đảng khi cần là bởi lẽ, nhân dân thấy Đảng luôn chăm lo cho nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Ngược lại, nếu làm trái lòng dân thì sẽ mất tất cả, dân sẽ không tin, không theo và không ủng hộ. Niềm tin của nhân dân chỉ có thể được củng cố trên cơ sở nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhưng trước hết và trên hết phụ thuộc vào chính hiệu quả hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì hiện thực hóa hệ mục tiêu này là trực tiếp hiện thực hóa những nhu cầu, lợi ích, mong muốn chính đáng, hợp lý, thiết thực của nhân dân. Rõ ràng là niềm tin của nhân dân đối với Đảng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố trực tiếp, hiện thực là Đảng làm gì cho nhân dân trên thực tế, thể hiện rõ hơn cả khi hiện thực hóa được hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Lung linh Lễ hội sông nước Thành phố Hồ Chí Minh_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Sáu là, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước trên trường quốc tế.

Hiện thực hóa được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, về thực chất, là làm cho đời sống của nhân dân được giàu lên về vật chất, về tinh thần, văn hóa, có sức khỏe thể chất đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có cuộc sống công bằng, dân chủ, văn minh. Từ một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, nhân dân đói khổ, đến nay, thu nhập của nhân dân ta đã tăng lên trên 4.000 USD/người/năm. Sau gần 40 năm đổi mới, thực hiện hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, gồm: “Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: Trong suốt 35 năm qua (tính đến tháng 5-2021) với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD/năm. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều.Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704 thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển(16). Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Có thể nói: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(17)

Đối với Đảng ta, bạn bè quốc tế đánh giá rất cao. Ông Philip Fernandez, đảng viên Đảng Cộng sản Canada, trong Hội thảo kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Uy tín và vị thế cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã phản ánh sức mạnh chính trị và ý thức hệ của Đảng, cũng như khả năng tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam khi tìm ra phương hướng trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, và cùng với sự tham gia của nhân dân để đưa ra chương trình nghị sự nhằm xây dựng một nước Việt Nam hiện đại. Một ưu điểm nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là khả năng ứng dụng một cách sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện của Việt Nam để đạt được các mục tiêu ở quy mô quốc gia và quốc tế. Điều này cũng phản ánh niềm tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng. Niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện khi Việt Nam mới đây đã trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối”(18). Tương tự, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Victor Kot, GS. Carl Thayer của Đại học New South Wales (Australia), nhà Việt Nam học kỳ cựu Evghenhi Kobelev, chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN thuộc Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN),... đã đánh giá cao vai trò, uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giáo sư Kolotov (Đại học Tổng hợp quốc gia Sant Peterburg Nga) nhấn mạnh, Việt Nam chưa bao giờ có được vị thế cao như hiện nay, điều này đạt được là nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 7% và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm(19). Rõ ràng là, hiện thực hóa hệ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế.

Bảy là, góp phần thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Trong tác phẩm Di chúc, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(20). Chúng ta đều rõ, Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chưa kết thúc. Do vậy, Bác đã nhấn mạnh tới thành tố hòa bình, thống nhất, độc lập, nhưng Bác vẫn mong muốn đất nước ta phải dân chủ, giàu mạnh. Đất nước có dân chủ, giàu mạnh thì chúng ta mới góp phần xứng đáng được vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Bởi lẽ, theo nghĩa thông thường chung nhất, giàu mạnh là giàu có và vững mạnh, còn dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ; là quyền lực nhà nước thuộc nhân dân, của nhân dân; ngoài ra, dân chủ còn được hiểu là chế độ dân chủ - một hình thức tổ chức thiết chế chính trị - xã hội mà ở đó toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện hoặc thông qua người đại diện do nhân dân bầu ra, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người. Nếu đất nước không giàu có, không vững mạnh, không có dân chủ thì khó mà xây dựng được đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, cũng như không thể góp phần xứng đáng và sự nghiệp cách mạng thế giới. Điều này cho thấy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là góp phần trực tiếp vào thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Việt Nam cũng đóng góp ngày càng trách nhiệm và hiệu quả trong các vấn đề toàn cầu, hoạt động quốc tế, như cử được 5 bệnh viện dã chiến cấp 2 và 2 đội công binh làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ Nam Sudan và Abyei; cử 2 đoàn công tác, gồm lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria vào tháng 2-2023... Đây là biểu hiện rõ của việc thực hiện cam kết chính trị của Việt Nam với vai trò là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng chung tay giải quyết các khó khăn, thách thức và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, vì sự hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Điều đó góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới của Đảng và nhân dân ta theo Di chúc của Bác Hồ vĩ đại. Như vậy, hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là trực tiếp góp phần thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

Bảy ý nghĩa trên của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” liên hệ, bổ sung cho nhau, cùng nhau thống nhất tạo nên ý nghĩa lý luận, thực tiễn, lịch sử to lớn của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

--------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 438
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 404
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 390
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 35 - 36
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 96 - 97
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 36 - 37
(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 21
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 70
(10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 21
(11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 21
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 18 - 19
(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 20
(14) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 5
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 33
(16) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 30 - 33
(17) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 34
(18) Xem: “Bạn bè quốc tế đánh giá cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 2-2-2020, https://www.qdnd.vn/ky-niem-90-nam-ngay-thanh-lap-dang-csvn-3-2-1930-3-2-2020/tin-tuc/ban-be-quoc-te-danh-gia-cao-vai-tro-cua-dang-cong-san-viet-nam-609041
(19) Xem: “Bạn bè quốc tế đánh giá cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tlđd
và  “Vai trò lãnh đạo của Đảng được bạn bè quốc tế đánh giá cao”, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 3-2-2020, https://cand.com.vn/Van-de-hom-nay-thoi-su/Vai-tro-lanh-dao-cua-Dang-duoc-ban-be-quoc-te-danh-gia-cao-i552737/ 
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15,  tr. 624

GS, TS Trần Văn Phòng

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều