|
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ khai giảng năm học 2024 - 2025 tại Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội_Ảnh: TTXVN |
Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
Chính sách xã hội là một trong những chính sách quan trọng ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Chính sách xã hội nhằm trợ giúp các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương về mặt xã hội. Chính sách xã hội triển khai hiệu quả trong đời sống nhân dân sẽ là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã hội, tạo động lực cho phát triển bền vững. Trong thế kỷ XXI chính sách xã hội không chỉ bao gồm chức năng quản lý xã hội, mà còn thể hiện mong muốn của Nhà nước hướng đến một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.
Chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội có nội hàm rất rộng, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau trong nhiều lĩnh vực, như bảo hiểm xã hội, việc làm, thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, chính sách với người có công, trợ giúp xã hội...
Nhiều văn kiện của Đảng và Hiến pháp đã đề cập chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội.
Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” xác định “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân”.
Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bổ sung, phát triển, làm rõ hơn nhận thức mới trong bối cảnh tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới. Hội nghị đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023 “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, trong đó tiếp tục khẳng định: Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, vì con người. Quan điểm này của Đảng đã mở rộng ra toàn bộ chính sách xã hội khác. Việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước đóng vai trò nòng cốt và chủ yếu chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đi đôi phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, thị trường, các tổ chức xã hội và ý chí tự lực, tự cường của người dân như lời phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(1).
Quyền được bảo đảm an sinh xã hội được hiến định tại Điều 34, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Luật Bảo hiểm xã hội là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và có tác động trực tiếp tới mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cũng cần được đề cập, như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Người khuyết tật, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Giáo dục nghề nghiệp...
Thời gian qua, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội được triển khai và đi vào cuộc sống. Hiện nay, 63/63 tỉnh, thành phố đã kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tới cấp xã (tương ứng với 10.595 xã đã thành lập ban chỉ đạo); 46/63 tỉnh, thành phố đưa chỉ tiêu về tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội, 60/63 tỉnh, thành phố đưa chỉ tiêu bao phủ bảo hiểm y tế vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; 22/63 tỉnh trích ngân sách hỗ trợ thêm cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; 62/63 tỉnh, thành phố trích ngân sách hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm y tế..
Kết quả cho thấy, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách an sinh xã hội, bảo trợ xã hội; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều theo chuẩn mới giảm từ 4,03% năm 2022 xuống 2,93% năm 2023. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc. Chất lượng giáo dục, đào tạo tiếp tục được nâng cao. Tập trung xử lý các vướng mắc để thực hiện tốt hơn công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tăng cường kết nối cung - cầu, phát triển thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp hơn mục tiêu đề ra(2).
Về độ bao phủ, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội của cả nước đạt khoảng 39,25% so với lực lượng lao động trong độ tuổi với 18,26 triệu người (đạt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, ngày 6-1-2023: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023). Trong đó, khoảng 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (với gần 1,83 triệu người) - vượt 1,42% so với mục tiêu giai đoạn đến năm 2025 tại Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt gần 31,6% lực lượng lao động trong độ tuổi với 14,7 triệu người. Đặc biệt, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 93,35%, vượt 0,15% so với Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, với trên 93,3 triệu người tham gia, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 68/2022/QH15, ngày 10-11-2022, của Quốc hội “Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023”, tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Số tiền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đạt 472.381 tỷ đồng, tăng 8,55% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 101,41% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao.
Trong dịp Tết Giáp Thìn năm 2024, toàn quốc đã hỗ trợ, tặng quà Tết cho trên 13,9 triệu lượt đối tượng với tổng kinh phí gần 7.762 tỷ đồng. Trung ương và địa phương đã hỗ trợ khoảng 17.736 tấn gạo cho người dân trong cả nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã trích Quỹ “Vì người nghèo” và chủ trì, phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc vận động đơn vị, doanh nghiệp, nhà hảo tâm thăm, tặng quà Tết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, công nhân nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn với tổng số trên 8,84 triệu suất quà, trị giá trên 5.055 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2023 vận động được 5,37 triệu suất quà trị giá khoảng 2.389 tỷ đồng). Các cấp hội chữ thập đỏ đã trợ giúp trên 1,52 triệu lượt người nghèo, người dân có hoàn cảnh khó khăn với tổng trị giá gần 1.036 tỷ đồng. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã trao 274.206 thẻ bảo hiểm y tế, 18.353 sổ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo.
Hiện nay, một số chính sách, quy định về bảo hiểm xã hội đang được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện, cải thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, giúp đỡ người lao động tiếp cận tốt hơn với việc làm, đặc biệt là trong thời kỳ có biến chuyển vĩ mô về năng lượng, dân số, công nghệ cũng như khủng hoảng toàn cầu thường xuyên, như đại dịch và chiến tranh...
Chương trình nghị sự phát triển quốc tế hiện nay nhấn mạnh sự cần thiết chuyển trọng tâm từ tăng trưởng kinh tế sang tăng trưởng bao trùm, trong đó nhấn mạnh đến sự phân phối và khả năng các nhóm dễ bị tổn thương tham gia vào quá trình tăng trưởng. Vì thế, chính sách an sinh xã hội cần được thúc đẩy để bảo đảm các nhóm dễ bị tổn thương (người khuyết tật; người dân tộc thiểu số; người nghèo,...) được hưởng lợi từ các chương trình an sinh xã hội khác nhau, cũng như có cơ hội được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam, với tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chính sách xã hội phải hướng tới toàn dân, bảo đảm toàn diện, công bằng, hiện đại, bao trùm, bền vững; an sinh xã hội phải được chú trọng hơn nữa và bảo đảm sự linh hoạt, thích ứng với các tình huống xấu xảy ra trên diện rộng (như dịch COVID-19), bảo vệ toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau”(3).
Để vượt qua trở ngại, điều quan trọng hàng đầu là phải tăng đầu tư cho an sinh xã hội. Điều này không chỉ có nghĩa là chỉ tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và địa phương, mà còn phải tăng số lượng người lao động và doanh nghiệp đóng góp và tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Bởi vì đó chính là cốt lõi của nền an sinh - toàn xã hội cùng nhau đóng góp, tập hợp nguồn lực và tài chính để giúp đỡ người cần sự hỗ trợ nhất. Nhìn lại mấy năm qua, trong quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội, Đảng và Nhà nước đã triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19; trong đó, đã thực hiện các giải pháp “chưa từng có” để khống chế, đẩy lùi dịch bệnh, chuyển hướng kịp thời chiến lược phòng, chống dịch. Đại dịch COVID-19 được kiểm soát hiệu quả, là nền tảng để phục hồi nền kinh tế, sản xuất, kinh doanh, đưa đời sống người dân trở lại trạng thái bình thường mới. Có thể thấy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, triển khai kịp thời, hiệu quả Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”, Nghị quyết số 116/NQ-CP, ngày 24-9-2021, của Chính phủ “Về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”, Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg, ngày 28-3-2022 “Quy định về việc thực hiện hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động” vượt qua khó khăn trong đại dịch. Tính đến ngày 30-6-2022, cả nước đã hỗ trợ cho 35.873.422 người lao động, người dân, 394.445 đơn vị sử dụng lao động và 508.391 hộ kinh doanh với tổng số tiền là 45.662,502 tỷ đồng; trong đó, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân hơn 4.730 tỷ đồng cho gần 1,4 nghìn đơn vị sử dụng lao động để trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất cho hơn 1,2 triệu lượt người lao động.
Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới
Năm 2023 có nhiều điểm sáng về ban hành và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2023/NĐ-CP, ngày 29-6-2023 về “Điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng”. Theo đó, từ ngày 1-7-2023, tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng từ 12,5% đến 20,8% và tiếp tục điều chỉnh tăng thêm đối với người nghỉ hưu, hưởng bảo hiểm xã hội hằng tháng trước năm 1995 có mức hưởng dưới 3 triệu đồng/tháng. Nghị quyết số 42-NQ/TW đã cho thấy điểm mới về hướng tiếp cận (từ “bảo đảm và ổn định” sang “ổn định và phát triển”) và mở rộng phạm vi ra toàn bộ nhóm chính sách xã hội cho tất cả đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện(4) của chính sách xã hội. Bên cạnh đó là kết quả bước đầu chuyển đổi số trong hệ thống bảo hiểm xã hội thực hiện theo Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Qua triển khai thực hiện đề án, hiện nay, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang quản lý hơn 91,74 triệu người tham gia, trong đó đã xác thực và đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đạt tỷ lệ 94%; 100% cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đã triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chip, đáp ứng yêu cầu tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân, với gần 50 triệu lượt tra cứu thông tin thẻ bảo hiểm y tế bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân thành công phục vụ làm thủ tục khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Đồng thời, ngành bảo hiểm xã hội cũng tăng cường chi trả các chế độ bảo hiểm không dùng tiền mặt, đặc biệt là đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - bảo hiểm xã hội số” trên nền tảng thiết bị di động. Hiện nay, có hơn 30 triệu tài khoản sử dụng ứng dụng, với hơn 4 triệu lượt sử dụng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng để đi khám chữa bệnh trên toàn quốc; các hoạt động tích hợp tài khoản VNeID với VssID; các dịch vụ công trực tuyến “Đăng ký tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện”; “Đăng ký đóng, cấp thẻ đối với người chỉ tham gia bảo hiểm y tế”; “Giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội số một lần” (thuộc nhóm áp dụng thí điểm xác thực chữ ký số được tích hợp trong ứng dụng trên thiết bị di động để phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến) nhằm đơn giản hóa thành phần hồ sơ, cắt giảm thời gian, chi phí, tạo thuận lợi tối đa phục vụ người dân, doanh nghiệp khi giao dịch với cơ quan bảo hiểm xã hội; tạo nhiều thuận lợi cho người dân khi thực hiện các thủ tục về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp;... Quá trình chuyển đổi số trong thực hiện chính sách an sinh xã hội này cũng giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo thuận lợi và bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân.
Những năm qua, chính sách xã hội được xây dựng đã thực hiện khá hiệu quả việc ngăn chặn sự xuất hiện của các vấn đề xã hội (chức năng phòng ngừa), khắc phục các vấn đề xã hội (chức năng chữa bệnh) và thúc đẩy các hình thức phúc lợi (chức năng phát triển). Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng trong thực hiện thì hệ thống chính sách xã hội Việt Nam đang có một số thách thức lớn, như quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa, di dân tự do làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, như vấn đề việc làm, nhà ở, phân tầng xã hội, tỷ lệ giảm nghèo có nơi chưa bền vững, rủi ro do biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan, như bão, hạn hán, giông, lốc, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất..., tàn phá nghiêm trọng cây lương thực và tài sản của người dân; đồng thời, gây khó khăn trong quá trình trồng lúa và các cây lương thực, gia tăng chi phí cho cho sản xuất nông nghiệp, kéo theo hệ lụy về nghèo đói gia tăng. Năm 2023, nước ta đã xảy ra 1.135 trận thiên tai với 21/22 loại hình thiên tai; đã làm 166 người chết, mất tích, thiệt hại về kinh tế khoảng 8.228 tỷ đồng. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo làm thay đổi phương thức sản xuất; vấn đề già hóa dân số nhanh đặt ra thách thức lớn trong bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi và nguồn cung lao động, tỷ lệ việc làm trong khu vực phi chính thức cao đang đòi hỏi chính sách lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực toàn diện; vấn đề an ninh phi truyền thống đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, gia tăng tổn thương với nhóm yếu thế. Đồng thời, nhận thức về an sinh xã hội trong kỷ nguyên số của các cấp, các ngành còn hạn chế và mang tính hình thức. Trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, vai trò, vị trí của an sinh xã hội chưa được đặt ngang tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Ngoài ra, mặc dù có những kết quả ban đầu, nhưng quá trình chuyển đổi số trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn một số hạn chế, như quá trình hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách xã hội còn chậm, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới theo hướng chuyên nghiệp hóa trong bối cảnh chuyển đổi số. Mặt khác, một bộ phận người hưởng chính sách an sinh xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với quá trình chuyển đổi số (người cao tuổi, người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, miền núi,...)
Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định tầm nhìn đến năm 2045: Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới. Bối cảnh mới và thực tiễn quản lý phát triển xã hội đã đặt ra yêu cầu tiếp tục rà soát, hoàn thiện, xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện hơn, đa tầng hơn, hiện đại hơn, bao trùm và bền vững hơn, bảo đảm an sinh, an ninh, an dân, nhất là trước những “cú sốc” và nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để tầm nhìn trở thành hiện thực, từ góc độ chính sách xã hội, an sinh xã hội cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm xã hội. Bởi vì, về bản chất, bảo hiểm xã hội là hệ thống được thiết kế với mục tiêu mang lại cho người dân sự hỗ trợ và bảo vệ trước những biến cố nhất định trong cuộc đời, như tuổi già, ốm đau hay thất nghiệp. Sự hỗ trợ đó đến từ cả hệ thống nói chung, bao gồm tất cả người tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Đồng thời, cần mở rộng an sinh xã hội để bù đắp tác động kinh tế mà biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan có thể tác động đến những người dễ bị tổn thương nhất, cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách xã hội. Hoàn thiện pháp luật an sinh số, hành lang pháp lý, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào phát triển an sinh xã hội. Thúc đẩy sự phát triển của công nghệ trong lĩnh vực an sinh như một giải pháp để phát triển hệ thống an sinh xã hội hiệu quả.
Để bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cần tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần xã hội và nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc người cao tuổi. Cần cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ trình nhất định nhằm bảo đảm sự công bằng, ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình hình phát triển thị trường tài chính. Ngoài việc bảo đảm mối quan hệ đóng - hưởng sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống hưu trí sẽ góp phần cải thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng kể, đặc biệt là việc đầu tư quỹ hưu trí được chú trọng và hiệu quả hơn. Đồng thời, trợ cấp xã hội cho nhóm người cao tuổi có điều kiện khó khăn cũng cần được mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi người cao tuổi, đặc biệt là cần chú trọng hỗ trợ người cao tuổi ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và phụ nữ cao tuổi. Mức hưởng và cách thức trợ cấp cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và sức khỏe của người cao tuổi. Việc xác định đối tượng cần được cải cách để tránh sai sót trong lập hồ sơ và phê duyệt đối tượng được hưởng.
Trong chính sách xã hội và an sinh xã hội cần hướng đến bảo đảm ngày càng tốt hơn bình đẳng giới, bởi phụ nữ thường làm việc chăm chỉ và có năng lực ngang bằng với nam giới, nhưng dường như vẫn có xu hướng bị trả lương thấp hơn. Tính trên toàn cầu, tiền lương cho phụ nữ chỉ bằng 77% so với nam giới. Do đó, các hệ thống an sinh xã hội bảo đảm khả năng tiếp cận công bằng cũng như hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái nghèo là vô cùng cần thiết. Đồng thời, chú# trọng giải pháp tài chính sáng tạo giúp phụ nữ và trẻ em gái thoát nghèo. Bảo đảm nguồn lực công được phân bổ và chi tiêu phù hợp với nhu cầu của phụ nữ và trẻ em gái có thể mang lại khoản hỗ trợ nhà ở cho khoảng 230.000 hộ nghèo ở khu vực nông thôn vào năm 2025 theo mụ#c tiêu đề ra.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất của bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là việc tạo ra cơ hội công bằng và bình đẳng cho mọi người. Điều này bao gồm việc xây dựng một hệ thống giáo dục và đào tạo chất lượng, cung cấp dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe đồng đều, bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cho mọi cá nhân. Bằng cách này, mỗi người dân đều có cơ hội để phát triển tiềm năng của mình và đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Công tác phòng ngừa tội phạm, bạo lực gia đình và bảo vệ quyền lợi của người lao động là các biện pháp quan trọng để bảo vệ an sinh và phúc lợi của cộng đồng.
Chính sách quản lý xã hội trước hết phải nhằm mục đích tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội, từ đó tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Chính sách an sinh xã hội là cho con người, vì con người, có vị trí, vai trò quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội là tiền đề cho phát triển con người của quốc gia để thực hiện quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước: Con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực, là nguồn lực phát triển. Do đó, trong mọi hoàn cảnh phải làm tốt công tác an sinh xã hội, nhất là thời điểm có nhiều tác động tới người nghèo, đối tượng yếu thế, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo./.
-----------------------
(1) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy trí tuệ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận, hoàn thiện các báo cáo, đề án để xem xét, quyết định những vấn đề trọng đại, có ý nghĩa rất quan trọng của nhiệm kỳ Đại hội XIII”, Tạp chí Cộng sản số 1024, tháng 10-2023
(2) Xem: Báo cáo số 580/BC-CP, của Chính phủ, ngày 20-10-2023 “Về đánh giá giữa nhiệm kỳ tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Nghị quyết số 31/2021/QH15 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025”
(3) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, phát huy kết quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ, thực hiện thật tốt các nghị quyết của Hội nghị, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; chuẩn bị thật tốt đại hội đại biểu đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng”, Tạp chí Cộng sản số 1024, tháng 10-2023
(4) Bao gồm 5 nhóm đối tượng: 1- Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; 2- Chính sách lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; 3- Chính sách bảo đảm an sinh xã hội (trụ cột là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, giảm nghèo); 4- Chính sách về nâng cao phúc lợi xã hội và bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội (về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin); 5- Chính sách đối với nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa
GS, TS HOÀNG BÁ THỊNH
Đại học Quốc gia Hà Nội
Theo Tạp chí Cộng sản