Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp

(Mặt trận) - Ở nước ta, tự chủ đại học được coi là xu thế phát triển tất yếu, là điều kiện cần và đủ để các trường đại học tồn tại và phát triển trong xu thế cạnh tranh và hội nhập. Việt Nam đã và đang thực hiện thí điểm cơ chế này. Ngoài những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đỏi hỏi sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết, Việt Nam đã thực hiện tự chủ đại học, nhưng mới được một số bước và còn phải tiếp tục thực hiện. Ảnh TTXVN
Tự chủ đại học (TCĐH) là khái niệm phản ánh mối tương quan giữa nhà nước và cơ sở đào tạo đại học theo hướng phát huy năng lực nội tại của các cơ sở đào tạo và giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền. Thời gian vừa qua ở Việt Nam, TCĐH đã và đang được thể chế và hiện thực hóa từng phần nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển nhân lực trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong bối cảnh hội nhập, với xu hướng tự chủ đại học trên thế giới ngày càng mở rộng thì vấn đề cấp bách hiện nay là Việt Nam phải có những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học và việc quản trị đại học cần phải có những cải cách thực chất hơn nữa.

Ở các nước châu Âu, TCĐH được nhìn nhận từ hai khía cạnh cơ bản:

(1) Thoát ra khỏi sự kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung cấp dịch vụ và ảnh hưởng chính trị;

(2) Quyền tự do đưa ra quyết định về cách thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường.

Nghiên cứu về các mô hình quản trị đại học trên thế giới cho thấy mức độ tự chủ - thể hiện ở mức độ kiểm soát của nhà nước đối với cơ sở GDĐH - ở các quốc gia là khác nhau do chịu ảnh hưởng của thể chế chính trị, kinh tế, xã hội không giống nhau. Thậm chí ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ của các cơ sở GDĐH cũng có thể khác nhau, tùy thuộc vào chất lượng của các cơ sở GDĐH. Thể chế tự chủ cao hơn là yếu tố then chốt tạo ra sự thành công của các cuộc cải cách đại học.

Nhìn chung, tự chủ đại học được nhìn nhận là sự thiết lập cơ chế độc lập tương đối của các ngoại tác nhân để trường đại học có thể chủ động trong công tác quản trị và tổ chức nội bộ, tạo lập và phân bổ các nguồn lực tài chính, tuyển dụng và bố trí nhân sự, xây dựng các tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho việc tổ chức giảng dạy, học tập và nghiên cứu

Ở Việt Nam, khái niệm “tự chủ đại học” mới xuất hiện khoảng gần hai thập kỷ gần đây. TCĐH ở nước ta được hiểu là các trường đại học được tự chủ theo quy định của pháp luật, gắn với tự chịu trách nhiệm và được thể chế hóa từng phần trong từng lĩnh vực hoạt động của các cơ sở GDĐH. Từ chỗ toàn thể hệ thống GDĐH như một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước về mọi mặt thông qua cơ quan chủ quản là Bộ GD&ĐT, các trường đại học đã và đang dần được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thể hiện qua các văn bản pháp quy của Nhà nước.

Điều lệ trường đại học, ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ: “Trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân sự” [1].

Luật Giáo dục năm 2005 đã đề cập đến việc thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.

Nghị quyết 14 của Chính phủ (14/2005/NQ-CP ban hành ngày 2 tháng 11 năm 2005) về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, chuyển các cơ sở GDĐH công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính; xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.

Thông tư liên tịch của Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ (07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV tháng 4 năm 2009) hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo đã nêu rõ quyền tự chủ của đơn vị trong việc xác định nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện; trong việc tổ chức bộ máy và biên chế trong đơn vị; trong việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức.

Nghị quyết về đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 (số 05-NQ/BCSĐ) của Ban cán sự Đảng Bộ GD&ĐT đánh giá thực trạng quản lý GDĐH và chỉ đạo tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và kiểm soát bên trong của trường đại học phù hợp với các quy định của Nhà nước.

Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục trong giai đoạn 2010-2012 (296/CT-TTg, ngày 27 tháng 2 năm 2010) cũng nêu rõ việc đổi mới quản lý GDĐH bao gồm quản lý nhà nước về giáo dục và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi mới toàn diện GDĐH, để từ đó các trường đại học, cao đẳng thực hiện quyền tự chủ và nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm trước xã hội và Nhà nước theo quy định của Luật Giáo dục.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chủ trương: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý GD&ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GD & ĐT” [4]

Luật Giáo dục đại học (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014, 2015, 2018) đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự chủ của cơ sở GDĐH. Quyền TCĐH đã được thể hiện ở nhiều điều khoản của Luật về hội đồng trường, hiệu trưởng, tuyển sinh, chương trình đào tạo, văn bằng, tài chính…

Khoản 11, Điều 4, Luật Giáo dục đại học quy định:  “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học” [3].

Đại hội XIII của Đảng đã chủ trương: “Đẩy mạnh tự chủ đại học” [4].

Nhìn tổng quát thực trạng triển khai thực hiện thí điểm tự chủ đại học ở nước ta như sau: bắt đầu được thí điểm từ giai đoạn 2014-2017 ở bốn trường đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo là Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại thương, Đại học Hà Nội và về sau mở rộng thêm các trường như: Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Đại học mở Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Bách khoa Hà Nội...

Sau 6 năm triển khai thí điểm TCĐH, Việt Nam đã có khoảng 30 cơ sở GDĐH công lập thực hiện tự chủ. Các cơ sở GDĐH được lựa chọn thí điểm đã có những thành tựu nhất định: vị thế của các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được củng cố và có thêm động lực phát triển, ảnh hưởng tới xã hội sâu rộng, tạo nguồn thu linh hoạt hơn, thu nhập của đội ngũ cán bộ tăng lên, khả năng hội nhập dễ dàng hơn...  

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tự chủ đã và đang nảy sinh không ít bất cập, đặc biệt là về các quy định liên quan. Chính sách, pháp luật về tự chủ chưa đồng bộ và cụ thể, khung pháp lý về tự chủ không phải chỉ nằm gọn trong Luật Giáo dục Đại học mà còn nằm rải rác trong các bộ luật liên quan khác; cơ chế bộ chủ quản không còn phù hợp; một bộ phận cơ sở GDĐH được giao thí điểm tự chủ vẫn còn chưa nhận thức đầy đủ về TCĐH, chưa chủ động chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện tự chủ; năng lực quản trị của nhiều trường chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; cơ chế công khai, minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình còn mang tính hình thức...

Thực tế cho thấy, việc giao quyền tự chủ đối với cơ sở GDĐH thời gian vừa qua mới chỉ thực hiện thí điểm, giao từ trên xuống chứ hầu như chưa trở thành nhu cầu nội tại của các cơ sở đào tạo; điều kiện tự chủ mới chủ yếu tiếp cận từ góc độ tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản mà hầu như chưa tính đến việc tự chủ về chuyên môn và học thuật (yếu tố mấu chốt tạo sự đột phá trong công tác đào tạo).

TCĐH ở Việt Nam được quy định trên ba phương diện chủ yếu:

(1). Tự chủ về chuyên môn và học thuật:

Khoản 3, Điều 32, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học quy định:Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật” [3].

Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có tự chủ đại học theo nghĩa đầy đủ của vấn đề này. Trên cơ sở thẩm định của Hội đồng Quốc gia thẩm định ngành về chương trình giáo dục đại học, Bộ GD&ĐT quy định chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, đại học xác định và thiết lập chương trình đào tạo của mình. 

Có thể khẳng định rằng, nếu không được tự chủ, đặc biệt là tự chủ về chương trình và không có tự do học thuật thì đại học chưa phải là đại học. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do sự “hành chính hoá”, “chính trị hoá” khoa học và giáo dục.

          (2). Tự chủ về tổ chức và nhân sự:

Khoản 4, Điều 32 quy định: “Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật” [3].

Với chủ trương này, trường đại học được quyết định về các vấn đề liên quan đến tuyển dụng, lương bổng, sử dụng nguồn nhân lực, bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí trong khu vực học thuật và khu vực hành chính...

Tại Việt Nam, cấp trường điều hành, quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường, dưới sự chỉ đạo của đảng ủy, ban giám hiệu cùng với các đơn vị chức năng tham mưu giúp việc. Cấp khoa quản lý các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành trực thuộc. Cấp bộ môn trực tiếp triển khai về học thuật trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học. Các trung tâm có nhiệm vụ triển khai ứng dụng khoa học - công nghệ…

Trong điều kiện hiện nay, sự ràng buộc về lợi ích và trách nhiệm giữa các chủ thể trong và ngoài liên quan đến định hướng phát triển của nhà trường, đặc biệt là cơ chế phân bổ lợi ích… Đòi hỏi phải có hội đồng trường đại diện cho cả Nhà nước và các bên có lợi ích liên quan cũng như thay mặt cho xã hội định hướng và giám sát hoạt động của bộ máy quản lý - điều hành nhà trường, đảm bảo sự phát triển hài hòa lợi ích giữa các chủ thể và xã hội.

Mục a, Khoản 2, Điều 32 quy định về điều kiện thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học: “Đã thành lập hội đồng trường, hội đồng đại học; đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp” [3]. Như vậy, việc thành lập hội đồng trường là điều kiện tiên quyết cho sự xác lập và được công nhận về cơ chế TCĐH ở nước ta.

Thực tế cho thấy, các cơ sở GDĐH đã bước đầu thành lập hội đồng trường và đi vào hoạt động, tuy nhiên hiệu quả chưa rõ nét. Ở một trường công lập với mức độ xã hội hóa thấp và sự tham gia của các chủ thể trong xã hội vào hoạt động và sự phát triển của trường ít, thì hội đồng trường sẽ ít có tác dụng và mang tính hình thức. Việc ban hành các văn bản pháp quy mang tính khiên cưỡng, không phản ánh đầy đủ vai trò thực chất của tất cả các tổ chức tham gia vào quá trình quản trị trường đại học ở nước ta thời gian qua đã và đang khiến mô hình quản trị trở nên méo mó.

Nhận định về sự chồng chéo, bất cập trong cơ chế quản trị ở các trường đại học đang thí điểm mô hình quản trị hiện nay, không ít nhà khoa học đồng tình với quan điểm: “Do phần lớn các vị trí lãnh đạo và quản lý cấp trung trở lên đều là đảng viên, thực chất tổ chức đảng giám sát toàn bộ hoạt động quản lý, vận hành của nhà trường không khác một tổ chức quản trị. Đến đây chúng ta có thể thấy hai tổ chức hội đồng trường và tổ chức đảng mang bóng dáng của nhau trong trường đại học, dẫn tới những lúng túng khi triển khai, thực thi luật, làm bế tắc tiến trình tự chủ. Đây có thể là kẽ hở cho những thực hành không lành mạnh đối với tự chủ đại học, chẳng hạn cơ quan chủ quản của một đại học dựa vào cơ chế và tổ chức chính trị để kiềm chế quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Nếu không giải quyết được vấn đề này, việc tồn tại của hội đồng trường mãi chỉ là hình thức” [6].

(3). Tự chủ về tài chính và tài sản:

Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Liên quan tới nội dung tự chủ về tài chính, Mục a, Khoản 3, Điều 20 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học như sau: “Là người đại diện theo pháp luật và là chủ tài khoản của cơ sở giáo dục đại học” [3].

Liên quan đến nội dung tự chủ về tài sản, Khoản 1, Điều 67 quy định: “Cơ sở giáo dục đại học quản lý, sử dụng tài sản được hình thành từ ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng tài sản nhà nước; tự chủ, tự chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước” [3]. Quy định này cho thấy rõ “tự chủ” khác với “không tự chủ” về cả cách thức và đối tượng quản lý, sử dụng: tự chủ đại học chỉ quy định đối với tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. 

Nguồn tài chính cho giáo dục đại học là khoản thu nhập dưới các hình thái giá trị khác nhau nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động giáo dục đại học ở mỗi quốc gia, bao gồm các khoản chi chủ yếu sau:

- Chi thường xuyên: lương của cán bộ, giảng viên, chi phí quản lý, hoạt động nghiệp vụ, cung ứng dịch vụ, đầu tư phát triển…

- Chi mua sắm và sửa chữa thiết bị: mua sắm, sửa chữa các thiết bị, phòng học, duy tu bảo dưỡng…

- Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học: nghiên cứu khoa học - công nghệ, hội nghị, hội thảo chuyên môn…

- Chi đào tạo liên kết: liên kết với các trường đại học khác trong nước và quốc tế...

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006  của Chính phủ đã nói đến việc giao quyền tự chủ tài chính cho các “đơn vị sự nghiệp dịch vụ công”, trong đó có các trường đại học. Bước đầu có sự chủ động về tự chủ tài chính, nhưng mới chỉ được tự chủ ở mức độ rất hạn chế, phần thu vẫn còn nhiều trói buộc, nhất là quy định về trần học phí.

Điều 12 Luật Giáo dục đại học quy định chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học: “Phân bổ ngân sách và nguồn lực cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả thông qua chi đầu tư, chi nghiên cứu phát triển, đặt hàng nghiên cứu và đào tạo, học bổng, tín dụng sinh viên và hình thức khác” [3]. Như vậy theo Luật, Nhà nước không phân bổ ngân sách và nguồn lực vào “chi thường xuyên” cho các trường đại học nữa.

Việc tự chủ về tài chính cũng là một trong những cơ sở quan trọng để phân loại các trường đại học về thương hiệu. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, nếu mở bung cơ chế tự chủ, đặc biệt là “ép” các trường phải tự chủ về tài chính ngay thì sẽ dẫn đến việc tăng học phí ồ ạt, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của người học. Tuy nhiên, việc tăng học phí một cách thiếu khoa học có thể là một trong những tác nhân gây phản ứng ngược, giảm uy tín cũng như sức cạnh tranh của các trường đại học. Các trường đại học sẽ phải cạnh tranh về mức học phí trong mối tương quan với chất lượng đào tạo của mình để thu hút người học. Mặt khác, cơ chế cào bằng học phí cũng không phải là xu thế chung trên thế giới.

Cơ chế TCĐH mà Việt Nam đang tiến hành không có nghĩa là thả nổi hay buông lỏng quản lý mà phải gắn chặt với cơ chế giải trình. Để đảm bảo chất lượng đào tạo và công bằng xã hội, trường đại học phải chịu trách nhiệm trước người học và xã hội, với Nhà nước. Thông qua cơ chế công khai, người học có điều kiện giám sát việc thực hiện các cam kết của nhà trường về mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, chuẩn đầu ra cùng các nguồn lực đảm bảo chất lượng đào tạo.

Khoản 6, Điều 32 Luật Giáo dục Đại học quy định về trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học đối với chủ sở hữu, người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan như sau:

a) Giải trình về việc thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, về việc quy định, thực hiện quy định của cơ sở giáo dục đại học; chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu không thực hiện quy định, cam kết bảo đảm chất lượng hoạt động;

b) Công khai báo cáo hằng năm về các chỉ số kết quả hoạt động trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với chủ sở hữu và cơ quan quản lý có thẩm quyền;

c) Giải trình về mức lương, thưởng và quyền lợi khác của chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ sở giáo dục đại học tại hội nghị cán bộ, viên chức, người lao động; thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán hằng năm, kiểm toán đầu tư và mua sắm; giải trình về hoạt động của cơ sở giáo dục đại học trước chủ sở hữu, cơ quan quản lý có thẩm quyền;

d) Thực hiện công khai, trung thực báo cáo tài chính hằng năm và nội dung khác trên trang thông tin điện tử của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

đ) Thực hiện nội dung, hình thức giải trình khác theo quy định của pháp luật” [3].

TCĐH là bước đi cần thiết và quan trọng để giáo dục đại học Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế. Luật GDĐH đã, đang và sẽ tạo hành lang pháp lý tốt hơn để các trường phát triển. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến công tác này còn thiếu đồng bộ.

Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Viên chức… còn chồng chéo và thậm chí là “rào cản” với các trường đại học trong quá trình xây dựng cơ chế tự chủ. Một số nội dung quy định nhà trường được phép tự chủ nhưng trên thực tế chưa thực hiện được, như việc sử dụng tài sản của nhà trường, liên danh để phát triển đào tạo khoa học công nghệ. Các nguồn từ ngân sách nhà nước như kinh phí nghiên cứu khoa học vẫn phải quyết toán theo Luật Ngân sách Nhà nước...

Một trong những dung rất quan trọng của tự chủ đại học là tự chủ về học thuật. Nếu tự chủ về học thuật là cơ sở quan trọng bậc nhất để khẳng định uy tín, sức mạnh của các cơ sở đào tạo đại học ở các quốc gia phát triển thì với Việt Nam, công tác này đang “vướng” nhiều sự ràng buộc từ phía các cơ quan chức năng.

Như vậy, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập ở Việt Nam thời gian qua đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không ít bất cập cần nhanh chóng tháo gỡ.

Để phát huy cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam một cách có hiệu quả, cần tiếp tục triển khai những hệ thống giải pháp cơ bản sau:

Về phía các cơ quan chức năng:

Cần nhanh chóng ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục Đại học, đi cùng với đó là rà soát, điều chỉnh để đồng bộ hóa các quy định trong các bộ luật liên quan để tránh sự chồng chéo.

Chuyển từ cơ chế quản lý trực tiếp sang cơ chế điều tiết, hỗ trợ bằng công cụ vĩ mô và giám sát chất lượng. Xây dựng hành lang pháp lý để các trường đại học có thể tự tin thực hiện xây dựng cơ chế tự chủ theo quy định và hướng dẫn của các văn bản pháp quy.

Xây dựng lộ trình tự chủ của cả hệ thống GDĐH trong mối tương quan tương đối với hệ thống GDĐH trên thế giới.

Ban hành cơ chế ưu đãi cụ thể (ưu đãi có tính điều kiện) để khuyến khích các cơ sở GDĐH đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ chế tự chủ.

Bổ sung, hoàn thiện các thiết chế liên quan để phân định hóa, hiện thực hóa vai trò của hội đồng trường trong các trường đại học.

Về phía trường đại học:

Việc thực hiện TCĐH ở nước ta có tính đặc thù, nhưng về cơ bản vẫn phải theo quy luật phát triển GDĐH thế giới.

Tự chủ về tổ chức và nhân sự:

Cần tích cực, chủ động lên kế hoạch và xây dựng lộ trình tự chủ; thiết lập khung cơ cấu tổ chức, sắp xếp bộ máy nhân sự và nâng cao năng lực quản trị.

Tự chủ về tài chính:

Để tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường cần hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ, chú trọng giải pháp chi theo hiệu quả công việc; phân cấp và quyền cho các đơn vị trong trường để mở rộng nguồn thu và khoán chi; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính…

Tự chủ về học thuật và đào tạo:

Các trường căn cứ vào điều kiện của mình để xây dựng chương trình đào tạo theo quy định.

Tiến hành đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao kỹ năng thực hành cho cả người dạy và người học; đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm; tăng cường liên kết với doanh nghiệp; liên thông đào tạo giữa các ngành, các trường trong và ngoài nước.

Mở các ngành học mới theo nhu cầu của thực tiễn và theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, tiếp cận chương trình đào tạo, giáo trình giảng dạy của các trường đại học ở các nước phát triển.

GDĐH Việt Nam đang ở trong tình thế cần có sự đột phá về chất lượng và hiệu quả. So với các nước phát triển, có kinh nghiệm hàng trăm năm để thực hiện TCĐH thì chúng ta mới đi được đoạn đường đầu tiên. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cũng là thời cơ thuận lợi giúp GDĐH Việt Nam tiếp thu những kinh nghiệm và thành tựu của các nước nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển. 

TCĐH là một quá trình phát triển, cần có điều kiện, thời gian để chuyển đổi từ nhận thức, ý thức và văn hóa chất lượng trong hệ thống GDĐH và toàn xã hội. Cùng với việc luật hóa công tác này thì sự đổi mới tư duy của các trường đại học vẫn là yếu tố có tính quyết định.

TS. Vũ Tiến Dũng

Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội

---------------------------

Tài liệu tham khảo:

[1]. Điều lệ trường đại học (Số: 70/2014/QĐ-TTg, ban hành ngày 10 tháng 12 năm 2014).

[2]. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

[3]. Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014, 2015, 2018), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2019.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Hà Nội, 2021, tr.137.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.

[6]. Uyên Nguyên, “Thiết kế hệ thống quản trị đại học ở Việt Nam: Mô hình nào cho tự chủ”, Tạp chí Tia sáng, 08/10/2020.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều