Tiết mục biểu diễn dân ca ba miền tại chương trình Xuân Quê hương 2023 - Ảnh: vietnamplus.vn
1. Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là khát vọng, mục tiêu trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trong Quốc hiệu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện mục tiêu, khát vọng của cả dân tộc. Chỉ có độc lập, tự do, hòa bình và thống nhất thì đất nước Việt Nam mới có được sự ổn định, phát triển và nhân dân hạnh phúc. Tinh thần khát khao tự do, hòa bình, ý chí tự lực, tự cường được thể hiện xuyên suốt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, khát vọng “Độc lập - Tự do” là động lực giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; khẳng định và giữ vững độc lập, tự chủ; hình thành văn hóa, lối sống hòa hiếu, tự lực, tự cường.
Không chỉ dừng lại ở khát vọng “Độc lập - Tự do”, mà nhân dân Việt Nam phải được “Hạnh phúc”, ấm no, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là một đặc trưng tổng quát, là mục tiêu cụ thể trong từng bước đi và cũng là đích đến xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam phấn đấu xây dựng. Đồng thời, đây cũng là tiền đề quan trọng để thực hiện “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(1) trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội XIII của Đảng đã khái quát, phát triển “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trở thành một nội hàm mới trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là điểm nhấn quan trọng, độc đáo, phản ánh sự phát triển nhận thức của Đảng về sức mạnh nội sinh và phương thức phát triển đất nước trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, với các thuận lợi, nguy cơ, thách thức đan xen phức tạp.
Trong bối cảnh hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ, khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc có ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của quốc gia - dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa và bổ sung quan điểm tại các kỳ Đại hội trước về những nhân tố tạo thành động lực phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(2).
Với tri thức, đạo đức, với lý tưởng, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, con người Việt Nam là chủ thể, động lực trung tâm của các nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc bảo đảm tất cả lợi ích đều xuất phát từ con người, phục vụ con người và “lấy con người làm trung tâm” là tất yếu khách quan. Ngược lại, nếu con người không được trao quyền và được bảo đảm quyền của mình với tư cách là người làm chủ trong thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa thì không thể phát huy được vị trí chủ thể, vai trò động lực trung tâm của các nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự biểu đạt rõ nét nhất về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(3). Người đã nêu rõ: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4). Người cũng nhấn mạnh: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(5).
Đảng ta khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho Tổ quốc ta có kinh tế hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, để mãi mãi độc lập và mãi mãi phồn vinh”(6). Theo đó, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm sự toàn vẹn, thống nhất về lãnh thổ, giữ vững môi trường ổn định, hòa bình, dân chủ và giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng, hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, khẳng định vị thế đất nước, sánh vai cùng các quốc gia trong khu vực và quốc tế.
Từ những định hướng quan trọng này, trong hơn 35 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có nguồn động lực, sức mạnh vô cùng to lớn vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo nên “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử (...) Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(7). Điều này khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng và dân tộc ta, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan, thực tiễn đất nước và xu hướng phát triển của thời đại.
Đó là kết quả từng bước hiện thực hóa mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước độc lập, tự do, phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là thành quả từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân là người làm chủ, mọi quyền lợi đều thuộc về nhân dân.
Trong điều kiện hiện nay, để đi lên chủ nghĩa xã hội, càng cần khơi dậy tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào việc hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong mỗi người dân. Khát vọng, mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân được hạnh phúc trên con đường xã hội chủ nghĩa, được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đồng lòng, nhất trí, hướng tới: đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao(8).
2. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm và sự chỉ đạo xuyên suốt về xây dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đây là động lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định, đây là quan điểm, chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố trong chặng đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đánh giá chặng đường 35 năm đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định, đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn trong đường lối đổi mới. Đại hội XIII đã khẳng định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(9).
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một tất yếu khách quan, cũng là yêu cầu trong chiến lược phát triển, đổi mới đất nước giai đoạn tới. Trong đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tổng hợp từ các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại; được hun đúc, soi rọi qua quá trình “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng...”(10).
Với quan điểm nêu trên, Đảng ta đã xác định đầy đủ, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại và những vấn đề cần đặt ra trong quá trình kết hợp nhằm mục tiêu phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta quyết định những vấn đề đối nội, đối ngoại trọng đại của đất nước trong các giai đoạn tới đây.
Để hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, qua đó, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đáp ứng được những đòi hỏi của sự phát triển nội tại và tăng cường vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Quan điểm của Đại hội XIII về xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là sự kế thừa, vừa là sự bổ sung, phát triển những quan điểm mà Đảng ta đã xây dựng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Đảng đã xác định rõ mục tiêu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(11).
Với sự khẳng định này, Đảng đề cao vai trò của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng đất nước giai đoạn mới, khẳng định mạnh mẽ hơn và thể hiện mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội với “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” chính là điểm hội tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”(12) là nội dung cơ bản để nhân dân ta thực hiện trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự đồng nhất giữa mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu, “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để tạo nên thắng lợi của cách mạng, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn tới có thành công hay không, trước hết phụ thuộc vào việc phát huy vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, để hiện thực hóa “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, chúng ta cần huy động tổng lực nhiều nguồn lực. Vì vậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một yêu cầu tất yếu, thực tiễn khách quan.
Theo đó, cần quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nhất là quan điểm về “dân là gốc”; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội. Tập trung sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào việc giữ vững độc lập, tự chủ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh nhằm giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định chính trị - xã hội, góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi để khơi dậy tài năng, trí tuệ, phẩm chất, giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; có cơ chế đào tạo, trọng dụng nhân tài; khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; tham gia chủ động, tích cực, thực chất vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, quyết tâm đạt được mục đích tốt đẹp mà Đảng đã đề ra.
Tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân”, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Tăng cường, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho nhân dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tăng cường công tác giáo dục, khơi dậy mạnh mẽ truyền thống, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Xây dựng, củng cố niềm tin vào việc hoàn thành thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thành quả cách mạng thực tế ở từng lĩnh vực trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ là thước đo chính xác nhất trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để biến “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” thành hiện thực. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy cao độ ý thức trách nhiệm, tinh thần cống hiến, lao động sáng tạo, phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc, phục vụ nhân dân, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)
Ngày nhận bài: 01-12-2022; Ngày bình duyệt: 05-3-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.
(1), (2), (8), (9), (10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.34, 34, 112, 110-111, 33, 14.
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.187, 64.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.30.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.143.
(7), (12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.34, 24-25.
TS BÙI THANH TUẤN
Viện Chiến lược Công an, Bộ Công an
Theo Tạp chí Lý luận chính trị