|
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng các đại biểu dự chương trình dự chương trình Ngày Chuyển đổi số quốc gia, tháng 10/2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Những vấn đề lý luận về Chính phủ số, xây dựng Chính phủ số
Khái niệm Chính phủ số là vấn đề mới được đặt ra nghiên cứu trong vài năm gần đây nên còn một số cách tiếp cận khác nhau của một số tổ chức quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về khái niệm này. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) lần đầu tiên đưa ra khuyến nghị về các chiến lược Chính phủ số đã đưa ra định nghĩa về Chính phủ số như sau: “Chính phủ số (Digital Government) là việc sử dụng các công nghệ số, như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa Chính phủ để tạo ra các giá trị công. Quá trình này dựa trên một hệ sinh thái Chính phủ số bao gồm các tác nhân liên quan đến Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân, thúc đẩy sự tạo ra và truy cập dữ liệu, dịch vụ và nội dung thông qua sự tương tác với Chính phủ”1. Theo cách tiếp cận này, OECD đã phân biệt rõ giữa khái niệm Chính phủ điện tử (nơi công nghệ được ứng dụng để cải tiến hiệu quả các quá trình hiện hữu) và khái niệm Chính phủ số (nơi các dịch vụ được hình thành ý tưởng và cung cấp theo những cách đổi mới và sáng tạo nhờ có sự hỗ trợ của các công nghệ hiện đại). Theo một cách tiếp cận khác của Ngân hàng thế giới (World Bank), khái niệm Chính phủ số được hiểu như sau: "Chính phủ số là việc các cơ quan Chính phủ sử dụng một cách có hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thực hiện quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó giao dịch của các cơ quan Chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí".
Ở Việt Nam, theo cách tiếp cận trong cuốn tài liệu “Cẩm nang chuyển đổi số” của Bộ Thông tin và Truyền thông, khái niệm Chính phủ số được hiểu như sau: “Chính phủ số là Chính phủ đưa toàn bộ hoạt động của mình lên môi trường số, không chỉ là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, mà còn đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu, cho phép doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ. Hay nói một cách khác, đây là quá trình chuyển đổi số của chính phủ”2. Theo cách tiếp cận này, cuốn tài liệu này đã chỉ ra những điểm khác biệt giữa khái niệm Chính phủ điện tử và Chính phủ số.
Từ khái niệm trên cho thấy, Chính phủ số không đồng nhất với Chính phủ điện tử. Chính phủ số có mối liên hệ trực tiếp kế thừa, bắt đầu từ Chính phủ điện tử (tức đã bao hàm Chính phủ điện tử), nhưng cơ bản có những điểm khác biệt về cách tiếp cận, cách triển khai mới nhờ vào sự phát triển của công nghệ số, thể hiện một sự thay đổi phát triển cao hơn Chính phủ điện tử. Cụ thể, Chính phủ số có những đặc điểm khác biệt so với Chính phủ điện tử như sau:
Thứ nhất, có sự đổi mới về mục tiêu và phương thức cung ứng dịch vụ công của Chính phủ. Trước hết, trong xây dựng Chính phủ số có sự chuyển đổi về tư duy quản lý, từ việc chính quyền cung cấp dịch vụ công để phục vụ sự quản lý nhà nước là chính sang mục tiêu chính quyền cung cấp dịch vụ công mang tính nền tảng, để kiến tạo sự phát triển cho xã hội là chính. Đồng thời, cách thức triển khai cung ứng dịch vụ công trong Chính phủ số cũng có sự thay đổi, từ việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến theo từng hệ thống riêng lẻ đến việc triển khai toàn bộ các dịch vụ thông qua một nền tảng (dịch vụ số).
Thứ hai, có sự đổi mới về quy trình nghiệp vụ và thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của chính phủ số. Chính phủ số chuyển mọi hoạt động của Chính phủ lên môi trường số, hướng đến đổi mới về quy trình nghiệp vụ từ nhấn mạnh cải cách thủ tục hành chính sang nhấn mạnh thay đổi mô hình quản trị, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ, nhanh chóng cung cấp dịch vụ công mới. Đồng thời, có đổi mới về thước đo đánh giá hiệu quả trong Chính phủ số. Chẳng hạn, một trong những thước đo chính của Chính phủ điện tử là số lượng dịch vụ hành chính công trực tuyến; còn một trong những thước đo chính của Chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm đi, số lượng dịch vụ công mới, mang tính sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên, nhờ công nghệ số và dữ liệu.
Thứ ba, Chính phủ số sử dụng dữ liệu là trung tâm. Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số là hoạt động dựa trên dữ liệu, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, coi dữ liệu là một tài nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức, ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên báo cáo bản giấy sang dữ liệu phân tích định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, giúp cho việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia. Ví dụ, quá trình ra quyết định phân luồng, cho phép thông quan hàng hóa ở cửa khẩu được hỗ trợ bởi việc tự động tổng hợp, phân tích dữ liệu liên quan (khai báo điện tử, truy xuất dữ liệu lịch sử…) đã rút thời gian xử lý từ nhiều giờ xuống chỉ còn vài giây.
Thứ tư, Chính phủ số cho phép sự tham gia nhiều hơn của người dân, của doanh nghiệp. Trong Chính phủ số có sự chuyển đổi về cách thức tương tác giữa người dân và cơ quan chính quyền, từ việc người dân chỉ thụ động nhận kết quả đến việc người dân có thể tham gia vào việc làm cho chất lượng dịch vụ trở nên tốt hơn, từ việc doanh nghiệp chỉ tham gia vào thiết lập các hệ thống kỹ thuật công nghệ để cung cấp dịch vụ đến việc doanh nghiệp có thể tham gia cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng cho người dân trên cơ sở dữ liệu mở của chính quyền. Nghĩa là, trong sự chuyển đổi này, Chính phủ số không chỉ cung cấp dịch vụ công, mà còn trở thành nhà cung cấp nền tảng lớn cho phép bên thứ 3 kết nối, ví dụ, dữ liệu mở hoặc các hệ thống phân tích dữ liệu, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ năm, Chính phủ số hướng đến phát triển kỹ năng số của các nhân viên. Chính phủ số hướng đến sự chuyển đổi về kỹ năng số của từng cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan chính quyền từ việc chỉ đơn thuần là kỹ năng sử dụng công nghệ sang bổ sung thêm các kỹ năng về phân tích và xử lý dữ liệu và kỹ năng giao tiếp hiệu quả với các bên để thích ứng với sự chuyển đổi từ Chính quyền điện tử sang Chính quyền số.
Thứ sáu, Chính phủ số hướng đến ứng dụng công nghệ mới. Chính phủ điện tử chủ yếu dùng công nghệ thông tin như từ công nghệ Web và máy tính, còn Chính phủ số là dùng công nghệ số, nhất là công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 với điện toán đám mây, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo... Đó là sự chuyển đổi về cách thức ứng dụng công nghệ trong cơ quan nhà nước khi xuất hiện hàng loạt công nghệ mới, chuyển từ việc ứng dụng công nghệ để đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ sang ứng dụng công nghệ để phục vụ và thích ứng kịp với sự phát triển nhanh và sáng tạo của nền kinh tế số, sự bùng nổ thông tin và sự phát triển của xã hội số.
Việc phân biệt các đặc điểm về phát triển của Chính phủ điện tử và Chính phủ số, không có nghĩa là phải làm tuần tự, làm xong Chính phủ điện tử rồi mới làm Chính phủ số. Thực tế là trong Chính phủ điện tử đã có một số yếu tố của Chính phủ số và ngược lại trong Chính phủ số bao giờ cũng tồn tại những yếu tố của Chính phủ điện tử. Do đó, cần thiết phải nhận thức rằng để có thể xây dựng được Chính phủ số thì cần phải làm nhanh, làm hiệu quả Chính phủ điện tử, có như thế mới tạo được nền tảng, thúc đẩy được quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ số tại Việt Nam.
Nội dung của xây dựng Chính phủ số
Công tác chỉ đạo điều hành và xây dựng cơ chế chính sách về Chính phủ số
|
Báo cáo viên giới thiệu chuyên đề về chuyển đổi số năm 2022 tại buổi sinh hoạt chuyên đề của Cơ
quan Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam
(9/11/2012 - 9/11/2022). ẢNH: TIẾN ĐẠT |
Chuyển đổi số là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm tận dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát triển. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính phủ ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Nội dung trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia tập trung vào ba trụ cột chính là phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 về phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Đồng thời, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật từng bước thể chế hoá những lĩnh vực nền tảng của Chính quyền số. Cụ thể như Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; Nghị định 47/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ quy định về các hoạt động quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước,… Điểm nổi bật trong các văn bản này là đã thể chế hoá khẳng định tầm quan trọng của dữ liệu số là yếu tố nền tảng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.
Xây dựng hạ tầng số
Hạ tầng số là yếu tố cơ bản của Chính quyền số, “Hạ tầng số không chỉ bao gồm viễn thông và Internet, mà là một hạ tầng phức hợp và toàn diện bao gồm kết nối, thiết bị, dữ liệu, ứng dụng và nghiên cứu phát triển công nghệ. Các thành phần này sẽ hỗ trợ tạo điều kiện cho nhau để phát triển đồng bộ”3. Tại báo cáo của Liên hợp quốc năm 2019 về Kinh tế số cũng mô tả các thành phần của hạ tầng số như sau: “Các thành phần của hạ tầng số bao gồm: (1) Cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông (thành phần chính phục vụ kết nối của hạ tầng số); (2) Hạ tầng dữ liệu (các Trung tâm dữ liệu, cáp ngầm và hạ tầng đám mây); (3) Các nền tảng số; (4) Các ứng dụng và thiết bị số”4. Hạ tầng số là yếu tố cốt lõi để đảm bảo vận hành Chính phủ số và Chính quyền số. Do đó, các yếu tố của hạ tầng số cần phải được quan tâm đầu tư xây dựng đồng bộ, đảm bảo đúng tiêu chuẩn chất lượng và đủ mạnh để vận hành hoạt động của Chính phủ số. Trong đó, trước hết cần đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống hạ tầng viễn thông như hệ thống mạng cáp quang băng rộng trong các cơ quan hành chính nhà nước và các hộ gia đình; phát triển hệ thống Internet không dây nhằm phủ sóng thông tin di động và thông tin di động băng rộng như mạng 3G, 4G, từng bước phát triển mạng 5G, mạng Wifi công cộng,... nhằm đảm bảo đường truyền mạnh kết nối các cơ quan chính quyền với các tổ chức, doanh nghiệp và người dân hiệu quả. Đồng thời, cần phát triển hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng để kết nối giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan nhà nước, được đảm bảo thông suốt, an toàn, bảo mật. Xây dựng Trung tâm dữ liệu đảm bảo duy trì ổn định, phục vụ cho việc vận hành các hệ thống dùng chung của cả nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định xây dựng hạ tầng số là nội dung trọng tâm của xây dựng Chính phủ số “Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân”5.
Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và các nền tảng ứng dụng của Chính quyền số
Chính phủ số là sự chuyển đổi từ một chính quyền cung cấp các dịch vụ được hỗ trợ bởi dữ liệu thành một chính quyền phụ thuộc vào chính dữ liệu của mình và chính quyền không chỉ sử dụng dữ liệu để cung cấp các dịch vụ sẵn có mà còn tạo ra các dịch vụ mới. Điều đó có nghĩa là Chính phủ và các dịch vụ của Chính phủ ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Do đó, cơ sở dữ liệu được xác định là nguồn lực, là tài nguyên số quan trọng như dầu mỏ của thời kỳ chuyển đổi số. Tuy nhiên, nguồn lực này không có sẵn nên việc xây dựng cơ sở dữ liệu trở thành một trong những yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng Chính phủ số.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu trước hết cần tập trung đó là các cơ sở dữ liệu quốc gia đang triển khai thực hiện theo từng ngành, lĩnh vực trong toàn hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, bởi đây chính là các dữ liệu chủ (master data) để các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước tham chiếu tạo sự nhất quán và đồng bộ trong toàn hệ thống các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước. Trong đó bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu quốc gia thống kê tổng hợp về dân số; cơ sở dữ liệu quốc gia về tài chính; cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm. Các loại cơ sở dữ liệu này đã được các bộ, ngành được giao chủ trì triển khai thực hiện đến nay cơ bản đã hoàn thành. Đồng thời, cần phải chú ý đến vấn đề kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin là đặc biệt quan trọng. Việc này giúp Chính phủ số trao đổi và sử dụng thông tin một cách đồng bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ công cung cấp cho người dân và doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý và điều hành, giúp hỗ trợ các quyết định dựa trên việc sử dụng thông tin kịp thời, đầy đủ và nhất quán.
Cùng với việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, việc phát triển các nền tảng ứng dụng để khai thác, chia sẽ dữ liệu cũng rất quan trọng của Chính phủ số như: xây dựng Nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu thành phố (LGSP); Cổng dịch vụ công quốc gia; nền tảng ứng dụng về họp trực tuyến, Trung tâm thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ số; nền tảng ứng dụng di động du lịch thông minh, ứng dụng di động cho công dân được triển khai trên Android và trên IOS; nền tảng ứng dụng tích hợp gồm tra cứu thông tin chuyên ngành, dịch vụ công, một số dịch vụ tiện ích khác.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy vận hành Chính phủ số
Xây dựng Chính phủ số là sự chuyển đổi số từ môi trường thực lên môi trường số. Đây là sự chuyển đổi có tính chất căn bản, toàn diện từ phương thức cung ứng dịch vụ công đến mô hình quản trị của Chính phủ. Do vậy, để đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi này và có thể vận hành được Chính phủ số, cần phải đổi mới toàn diện tổ chức bộ máy của Chính phủ. Trước hết, cần đổi mới quy trình nghiệp vụ như phương thức giải quyết thủ tục hành chính, phương thức ban hành các quyết định, xây dựng và trao đổi các báo cáo và các văn bản hành chính,… từ trực tiếp sang trực tuyến thông qua đẩy mạnh ứng dụng cơ sở dữ liệu và các công nghệ số. Tiếp đến cần đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy của chính phủ theo hướng tinh gọn, linh hoạt phù hợp với đổi mới quy trình nghiệp vụ. Đặc biệt, cần phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng đổi mới tư duy, nhận thức và nâng cao năng lực ứng dụng các công nghệ, các nền tảng số phù hợp với yêu cầu vận hành Chính phủ số. Từ việc nhận thức rõ phương châm muốn xây dựng thành công Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số cần có nguồn nhân lực số, cần thực hiện nhiều giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đặc biệt, cần đảm bảo nguồn nhân lực trực tiếp phụ trách tham mưu chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số.
Đảm bảo an toàn, an ninh mạng trong vận hành Chính quyền số
Trong xây dựng Chính phủ số, vấn đề an toàn, an ninh mạng là vấn đề sống còn. Những nguy cơ về mất an toàn, an ninh mạng có thể xảy ra đối với mọi cá nhân, tổ chức có kết nối vào giao dịch trên mạng. Việc bảo đảm an toàn, an ninh mạng cho các hệ thống thông tin của Chính phủ số còn đang ở tình thế bị động, chưa được quan tâm đúng mức. Nguy cơ về mất an toàn, an ninh mạng này có thể làm thiệt hại các tài nguyên dữ liệu số, giảm hiệu quả tương tác, giao dịch giữa các cơ quan của Chính phủ số. Đồng thời, việc tương tác giữa người dân, doanh nghiệp đối với Chính phủ thông qua hình thức trực tuyến còn có những hạn chế, đặc biệt là trong giải quyết các thủ tục hành chính thông qua các dịch vụ công trực tuyến, trong đó có một phần nguyên nhân cơ bản là thói quen và tâm lý sợ chưa đảm bảo an toàn thông tin thông qua các giao dịch trực tuyến. Do đó, để phát triển Chính phủ số, việc nghiên cứu, triển khai áp dụng các giải pháp để đảm bảo an toàn, an ninh mạng là nhiệm vụ rất quan trọng. Các giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng, trong đó trước hết cần phải đảm bảo an toàn đối với hệ thống thông tin, dữ liệu của Chính phủ; an toàn, bảo mật thông tin trong các giao dịch trực tuyến giữa người dân, tổ chức, doanh nghiệp với Chính phủ.
Sự cần thiết phải xây dựng Chính phủ số
Xây dựng Chính phủ số nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra một thời đại mới trong tiến trình phát triển của nhân loại - thời đại số, tác động ngày càng mạnh mẽ lên mọi mặt hoạt động của xã hội, trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia tiến hành chuyển đổi số để phát triển. Để thích ứng với tình hình mới và tận dụng cơ hội mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030,… trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Việc xây dựng Chính phủ số - một trong ba trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia sẽ giúp Việt Nam tận dụng được những cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, tạo ra sự bứt phá để thu hẹp khoảng cách, giúp chúng ta mau chóng tiến kịp với các nước phát triển trên thế giới.
Xây dựng Chính quyền số góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ
Một là, Chính quyền số góp phần nâng cao năng lực quản lý điều hành và xử lý công việc của Chính phủ hiệu quả hơn. Chính phủ với chức năng chính là quản lý hành chính nhà nước, hoạch định và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn; ban hành các quyết định quản lý nhà nước trên các lĩnh vực để kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra ở đất nước. Chính phủ số hoạt động dựa trên dữ liệu, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, cùng với việc sử dụng các công nghệ mới của cuộc Cách mạng 4.0 như điện toán đám mây, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là các trung tâm xử lý dữ liệu giúp cho việc ban hành quyết định quản lý và xử lý công việc của các cơ quan hành chính nhanh hơn, kịp thời và hiệu quả hơn. Đồng thời, Chính phủ số cho phép thực hiện việc giao ban điện tử, họp trực tuyến, hệ thống thông tin báo cáo trực tuyến,… nên giảm được tối đa việc sử dụng giấy tờ hành chính, đi lại tốn kém chi phí. Với những tiện ích đó, chi phí hoạt động của Chính phủ sẽ được giảm đi đáng kể, trong khi đó năng lực quản lý của Chính phủ được nâng lên. Chẳng hạn, khi điện tử hóa các văn bản, báo cáo, ước tính tiết kiệm được cho ngân sách của Nhà nước hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Hai là, Chính quyền số góp phần nâng cao hiệu quả cung ứng các dịch vụ công. Chính phủ số hướng tới đảm bảo cung ứng 100 % dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4 (các thủ tục hành chính sẽ hoàn toàn được thực hiện qua môi trường mạng). Các dịch vụ công của cơ quan nhà nước sẽ được cung cấp tự động 24/24 phục vụ người dân, tổ chức và doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính. Do đó, Chính phủ số được xác định là một giải pháp quan trọng đối với cải cách hành chính công, tạo thuận lợi, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí rất lớn cho cả các cơ quan hành chính, người dân, tổ chức và doanh nghiệp.
Ba là, Chính phủ số có vai trò đầu tàu dẫn dắt xây dựng kinh tế số, xã hội số, thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Chuyển đổi số quốc gia diễn ra với tốc độ nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong công cuộc chuyển đổi này, xây dựng Chính phủ số là trọng tâm, có vai trò dẫn dắt xây dựng kinh tế số và xã hội số nên phải đi trước nhằm định hướng và tạo không gian phát triển cho kinh tế số, xã hội số. Qua đó, thúc đẩy chuyển đổi số sâu rộng trên tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội (từ kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh,…) góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, tăng khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công của người dân. Đồng thời, xây dựng Chính phủ số còn góp phần mở ra những cơ hội mới cho người dân và doanh nghiệp trong phát triển kinh tế. Chẳng hạn, Chính phủ số mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới trên các lĩnh vực thông tin, kỹ thuật công nghệ, dịch vụ phục vụ cho xây dựng Chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số vừa phát triển doanh nghiệp công nghệ số, coi Chính phủ số là thị trường phát triển công nghệ.
Bốn là, Chính phủ số đảm bảo sự minh bạch hơn, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của các cơ quan nhà nước . Minh bạch hóa nền hành chính quốc gia là đặc tính của nền hành chính hiện đại nên cải cách hành chính nhà nước hướng tới mục tiêu đó. Chính phủ số góp phần đem lại sự minh bạch cho hệ thống chính quyền thông qua việc trao cho công dân quyền truy cập dữ liệu thông qua hệ thống dữ liệu mở của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố. Với khối lượng thông tin công khai, minh bạch của Chính quyền số, người dân có điều kiện thực hiện tốt hơn quyền dân chủ, đóng góp ý kiến xây dựng và triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời, có thể tham gia giám sát, phản biện, tố cáo các hành vi sai trái của đội ngũ cán bộ, công chức, qua đó sẽ hạn chế các hành vi phiền hà, sách nhiễu và các việc làm tiêu cực của cán bộ, công chức, nhất là hành vi tham nhũng, lãng phí nhằm xây dựng các cơ quan hành chính nhà nước đảm bảo liêm chính và hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Khi Nhân dân nắm được và hiểu rõ về các chủ trương, chính sách và các hoạt động của chính quyền, họ sẽ chủ động và tích cực hơn trong việc thực hiện quyền giám sát, phản biện của mình. Hơn nữa, phương thức để Nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan chính quyền cũng rất thuận lợi qua môi trường số. Thông qua đó khuyến khích người dân tham gia nhiều hơn vào hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm phát huy được trí tuệ và sức mạnh của Nhân dân.
Với những nội dung của xây dựng Chính phủ số và tầm quan trọng của xây dựng Chính phủ số, các địa phương cần đẩy mạnh thực hiện xây dựng triển khai để thực hiện được mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong Văn kiện Đại hội XIII.
Chú thích:
1. http://www.oecd.org/gov/digital-government/Recommendation-digital-government-strategies.pdf
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2020), “Cẩm nang chuyển đổi số”, Bộ Thông tin và Truyền thông (tái bản lần thứ hai năm 2020), tr. 79.
3. TS. Cao Viết Sinh (2019), Việt Nam thời chuyển đổi số, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr 48.
4. Nguyên Đức (2020), “Mạng truyền số liệu chuyên dùng hạ tầng số phát triển Chính phủ số”, Tạp chí Thông tin truyền thông, số 13+14, tr.74.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tập 1, tr. 213.
Vũ Thị Hồng Trang
Tiến sĩ, Học viện Chính trị Khu vực I