Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng dự án Luật Đất đai (sửa đổi)

(Mặt trận) - Ngày 16/6/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Đây là cơ sở chính trị rất quan trọng để hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai.

Ngay sau khi Nghị quyết số 18-NQ/TW được ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Nghị quyết vào dự thảo Luật. 

Thực hiện quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng pháp luật, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; xác định tầm quan trọng của dự án Luật Đất đai (sửa đổi); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã luôn theo sát quá trình xây dựng, soạn thảo dự án Luật này và có nhiều ý kiến góp ý quan trọng nhằm hoàn thiện dự thảo, tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Về quá trình tham gia góp ý kiến, phản biện xã hội đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi)

Ngay từ khi Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi), Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức Hội nghị phản biện xã hội lần thứ nhất đối với dự án Luật quan trọng này.

Sau Hội nghị phản biện xã hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có văn bản số 4535/MTTW-BTT ngày 23/9/2022 về phản biện xã hội đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi), qua đó đã kiến nghị một số nội dung cụ thể tới cơ quan soạn thảo để hoàn thiện dự thảo luật; bảo đảm thực hiện các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thực hiện đề nghị của Ủy ban Kinh tế, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục có Công văn số 4648/MTTW-BTT ngày 19/10/2022 về việc góp ý kiến dự án Luật Đất đai (sửa đổi).

Cùng với đó, thực hiện trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thuộc khối Mặt trận tiếp tục có những ý kiến góp ý trực tiếp đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi) tại diễn đàn Quốc hội (các phiên họp toàn thể hay các phiên họp tổ).

Theo Nghị quyết số 671/NQ-UBTVQH15 ngày 23/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và căn cứ Nghị quyết số 170/NQ-CP ngày 31/12/2022 của Chính phủ về việc ban hành kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch và triển khai thực hiện việc lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo luật quan trọng này. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó người dân giữ vai trò trung tâm.

Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức ở Trung ương tổ chức các hội nghị lấy ý kiến; đồng thời đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân tại địa phương, cơ sở; chủ trì lấy ý kiến các hội đồng tư vấn, ban tư vấn, các tổ chức thành viên, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trên địa bàn về dự thảo.

Ảnh minh họa - Hội nghị phản biện xã hội đối với Dự án Luật Đất đai (sửa đổi)  

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp giữ vai trò nòng cốt trong việc tổ chức lấy ý kiến; nhiều tổ chức thành viên đã có những hình thức tổ chức lấy ý kiến đa dạng, hiệu quả, phù hợp với phương thức hoạt động của tổ chức mình.

Ngày 20/3/2023, Ban Thường trực đã có Báo cáo số 648/BC-MTTW-BTT về kết quả lấy ý kiến Nhân dân gửi Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tài nguyên - Môi trường và các cơ quan liên quan.

Báo cáo này đã tổng hợp từ nhiều ý kiến tâm huyết, chất lượng các Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức thành viên và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Theo Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 thì dự án Luật Đất đai (sửa đổi) được trình Quốc hội cho ý kiến lần thứ hai vào kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023); thông qua vào kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023).

Nhằm có thêm căn cứ để Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục tổ chức hội nghị phản biện xã hội lần thứ hai đối với dự án luật này.

Hội nghị tập trung vào những nội dung Ban soạn thảo chưa tiếp thu hoặc tiếp thu chưa đầy đủ ý kiến của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Báo cáo kết quả lấy kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); phản biện đặt trọng tâm vào những vấn đề, chính sách lớn và còn nhiều ý kiến khác nhau, những nội dung còn chưa phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013.

Sau hội nghị, Ban Thường trực đã có văn bản phản biện gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Một số vấn đề cụ thể

Về khái niệm sở hữu toàn dân và quyền sử dụng đất

Dự thảo chưa thể chế đầy đủ quan điểm “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu” được đề ra trong Nghị quyết số 18. Thuật ngữ “sở hữu toàn dân” chỉ được nhắc đến tại 3 Điều: Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, Điều 2. Đối tượng áp dụng và Điều 13. Sở hữu đất đai; nhưng không có định nghĩa cụ thể thế nào là sở hữu toàn dân về đất đai. Điều đó dẫn đến việc các chủ thể trong quan hệ pháp luật về đất đai khó có thể xác định được quyền của mình.

Để bảo đảm cụ thể hóa đầy đủ các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền, trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai, đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của dự thảo luật theo hướng làm rõ vai trò của Nhà nước với ba tư cách:

1) Là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai;

2) Là người thực hiện chức năng thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi cả nước;

3) Là người sử dụng đất với cơ chế cụ thể để bảo đảm thực hiện; đồng thời, bổ sung các quy định về quyền đại diện của chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai.

Về khái niệm quyền sử dụng đất: Theo luật, toàn bộ đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng khi đã giao đất cho người sử dụng thì người đó có một quyền dân sự đặc biệt đối với đất được giao, đó là quyền sử dụng đất.

Tuy phát sinh từ quyền sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng sau khi luật ra đời thì quyền sử dụng đất tồn tại độc lập, có chủ thể, khách thể và nội dung được xác định, do đó, cần phải được pháp luật quy định cụ thể và đầy đủ thì quyền này mới có thể thực thi được trong cuộc sống.

Trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) hiện đang có sự không thống nhất giữa các khái niệm, phạm trù liên quan đến quyền sử dụng đất. Như tại khoản 40 Điều 3: “Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước cho thuê đất)…”; khoản 43 Điều 3 cũng viết: “Nhà nước giao quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước giao đất)...”.

Các định nghĩa này là rất khiên cưỡng và không chính xác vì đã đồng nhất đất với quyền sử dụng đất, trong khi đó đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Việc sử dụng các cụm từ, thuật ngữ trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cũng được thực hiện một cách không nhất quán. Khi sử dụng từ “giá đất”, khi sử dụng “giá quyền sử dụng đất”; khi sử dụng “chuyển nhượng đất”, khi là “chuyển nhượng quyền sử dụng đất”... Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát, sử dụng thống nhất các thuật ngữ.

Đề nghị bổ sung tại Điều 3 của dự thảo về khái niệm: “Quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản (một loại vật quyền hạn chế) do pháp luật quy định, cho phép các chủ thể sử dụng đất được thực hiện những hành vi nhất định đối với đất (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) nhằm thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của mình”.

Về việc thể chế hóa quy định liên quan đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và các tổ chức thành viên

Thứ nhất, quy định về “vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong quản lý và sử dụng đất đai” Điều 20 trong mục I - quyền và trách nhiệm của nhà nước là đại diện chủ sở hữu về đất đai của Chương II là chưa phù hợp (chương và mục này quy định về Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải là Nhà nước).

Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm tên của Chương II: Quyền và trách nhiệm của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và công dân đối với đất đai. Bổ sung vào mục 3 quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc đối với đất đai.

Tại điểm d khoản 2 của Điều 20 quy định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tham gia xây dựng bảng giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất chưa thật sự phù hợp, vì đây là việc của các cơ quan chuyên môn, Mặt trận thực hiện giám sát việc thực hiện các quy định, không làm thay các cơ quan, thực tiễn cũng không có đủ nhân lực, điều kiện để làm tốt việc này. Trong Điều 20 cũng cần bổ sung nhiệm vụ tuyên truyền Nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.

Thứ hai, căn cứ vào quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với quản lý và sử dụng đất đai tại Điều 20, việc cụ thể hóa quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc quy định ở các chương sau của dự thảo luật cần được sửa đổi, bổ sung tại các chương sau cho phù hợp.

Thứ ba, về quyền sử dụng đất của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 dự thảo luật thì tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một trong các loại tổ chức trong nước thuộc đối tượng sử dụng đất. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định tại Chương IX về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất thấy rằng, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp không thuộc trường hợp được Nhà nước cho giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.

Việc không quy định này là chưa phù hợp với thực tế nhu cầu sử dụng đất của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Vì vậy, đề nghị cân nhắc, bổ sung quy định để các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có tính chất đặc thù được Nhà nước giao nhiệm vụ chính trị, pháp lý quan trọng có thể được Nhà nước xem xét, giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê để xây dựng trụ sở của mình, bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao.

Chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Dự thảo Luật Đất đai đưa ra lấy ý kiến Nhân dân quy định đối với đồng bào dân tộc thiểu số có 4 điều, khoản quy định riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 17, Điều 52; khoản 2 Điều 174; điểm a khoản 3 Điều 175). Có 4 điều khoản quy định cho một số đối tượng ưu tiên, trong đó có dân tộc thiểu số (khoản 1 Điều 40, điểm đ, khoản 2 Điều 125; khoản 1 Điều 137; khoản 1 Điều 152); trong đó, các chính sách đã được quy định cụ thể: Giao đất ở; giao đất sản xuất; được ưu tiên hơn so với đối tượng khác khi thực hiện giao đất, cho thuê đất; được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ khi giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Tuy nhiên, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, tháng 4/2023) chỉ giữ lại Điều 17 “Trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số” (với 4 khoản) vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo dự thảo luật có sự giải trình rõ hơn vì sao bỏ các khoản quy định trong các Điều: 52, 40, 125, 137, 174, 175.

Đề nghị sửa đổi chính sách “tạo điều kiện” trong Điều 17 dự thảo cần sửa thành “ưu tiên” theo đúng quan điểm của Nghị quyết số 18-NQ/TW. Về chính sách ưu tiên giao đất, cho thuê đất cho đồng bào dân tộc thiểu số; cần bổ sung vào dự thảo Luật Đất đai về quy định: Đất ở, đất sản xuất được hình thành từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp (ưu tiên) cho đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chính sách dân tộc thì không được mua bán, chuyển nhượng, cho thuê.

Trong chương về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Để việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số đúng tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW “… giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;…” cần xem xét, quy định bổ sung nhiệm vụ này vào nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xác định rõ: đối tượng, địa bàn, kế hoạch thực hiện 5 năm và hằng năm theo phạm vi, thẩm quyền của cấp tỉnh/huyện.

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện phải xác định rõ đối với từng xã về số hộ, diện tích, loại đất, vị trí (lô, thửa); hiện trạng hạ tầng về giao thông, điện, nước… (nếu bố trí đất ở); đất rõ nguồn gốc, không có tranh chấp; phương án giao đất phải cụ thể, được sự thống nhất của cộng đồng dân cư và người dân được giao đất theo chính sách; đồng thời, chính quyền địa phương phải bố trí kinh phí và các điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện.

Về đất tôn giáo

Để thể hóa hóa điều này, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục quy định cụ thể:

Thứ nhất, bổ sung tại Điều 3 thêm mục giải thích đất tôn giáo là gì ? Đất tín ngưỡng là gì cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Cách hiểu hiện nay giữa các luật rất khác nhau.

Thứ hai, các điều quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phân loại đất trong luật cần phải đề cập rõ hơn đất tôn giáo, tín ngưỡng. Bổ sung “đất tín ngưỡng“ trong quy hoạch cấp tỉnh, đất “tín ngưỡng, tôn giáo“ trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Đây là nội dung rất quan trọng vì nếu không rõ thì các vướng mắc hiện tại không được giải quyết.

Căn cứ giao đất, cho thuê đất đều quy định phải căn cứ vào quy hoạch, nếu không có quy định đất tín ngưỡng, tôn giáo trong quy hoạch cấp huyện thì không có căn cứ để thực hiện (dự thảo có ghi đất tôn giáo trong quy hoạch cấp tỉnh).

Thứ ba, làm rõ thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều 78. Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng được nhiều ý kiến quan tâm là quy định rõ thế nào là vì lợi ích quốc gia, công cộng, phải cụ thể hơn luật hiện hành để tránh lợi dụng nội dung này, thu hồi đất tràn lan, xong lại sử dụng vào mục đích thương mại.

Thứ tư, cụ thể hóa tiêu chí giao đất tôn giáo, tín ngưỡng không thu tiền và khung hạn mức giao đất. Điều 206 và 207 quy định chưa rõ. Luật cần chỉ ra các loại hình tôn giáo được thuê đất để phù hợp với chính sách: “tổ chức tôn giáo sử dụng đất vào mục đích khác phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước theo quy định của pháp luật để tiết kiệm đất, sử dụng đất có hiệu quả“, tránh lợi dụng chính sách để “ôm“ đất, “đầu cơ“ đất, lãng phí không sử dụng đất.

Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Tại khoản 9 của Điều 56 quy định: “Các quy hoạch sử dụng đất có thể lập đồng thời; quy hoạch được lập, thẩm định xong trước được quyết định hoặc phê duyệt trước. Sau khi quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt, nếu có mâu thuẫn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh phù hợp quy hoạch cao hơn”. Cần xem xét lại quy định này, đây là một quy định linh hoạt.

Các quy hoạch có thể lập đồng thời song không thể xác định chỉ một chiều là nếu có mâu thuẫn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh theo quy hoạch cao hơn mà nên bổ sung, nếu có căn cứ khoa học và hợp lý thì quy hoạch cao hơn cũng được điều chỉnh phù hợp. Đây là nội dung đã được Quốc hội xác định trong kết quả giám sát thực hiện Luật Quy hoạch.

Đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại nội dung tại khoản 9 có mâu thuẫn với nguyên tắc tại khoản 4 hay không. Bởi khoản 4 quy định nguyên tắc “Được lập từ tổng thể đến chi tiết; quy hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải phù hợp với các chỉ tiêu do quy hoạch sử dụng đất của cấp trên phân bổ; quy hoạch sử dụng đất cấp huyện phải xác định được nội dung sử dụng đất đến cấp xã; kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”.

Tại Điều 66 về Lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Dự thảo luật không có quy định Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tham vấn ý kiến người dân về quản lý, sử dụng đất.

Tuy nhiên, thực tế tham vấn ý kiến người dân là hoạt động thường xuyên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Dự thảo luật cần có các quy định về sự tham gia ý kiến của người dân trước khi Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận góp ý, phản biện và tham gia vào các hoạt động khác với tư cách thành viên, từ đó tập trung sức mạnh cho hệ thống Mặt trận, để sự tham gia của Mặt trận vào các hoạt động quản lý, sử dụng đất đai của Nhà nước thực sự có chất lượng, tránh hình thức.

Về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc quy định tại khoản 8 của Điều 74 quy định thu hồi đất làm cơ sở an dưỡng, điều dưỡng, nghỉ dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân. Bởi đất đai là tư liệu sản xuất quý giá của người dân, việc thu hồi đất làm cơ sở an dưỡng, điều dưỡng, nghỉ dưỡng có thật sự phục vụ mục đích quốc phòng an, ninh hay không? Nếu đưa quy định này vào dự thảo có thể nhận nhiều ý kiến trái chiều, không đồng thuận trong Nhân dân.

Quy định của dự thảo tại Điều 75 có thể dẫn đến mở rộng hơn một số trường hợp thu hồi đất so với luật hiện hành và dự thảo trước. Khoản 2 Điều 75 về xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, công trình sự nghiệp, quy định về xây dựng các “cơ sở văn hóa”, “cơ sở giáo dục”, “cơ sở thể dục thể thao” thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng cũng có phạm vi khá rộng, vì quy định này dẫn đến cách hiểu là bao gồm công trình sự nghiệp do Nhà nước, tư nhân đầu tư.

Do vậy, để thống nhất về nhận thức và tránh phát sinh những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện, đề nghị luật cần bổ sung quy định mang tính nguyên tắc chung tại Điều 75 dự thảo luật về mục đích, tiêu chí trường hợp phải tiến hành thu hồi, việc thu hồi phải đem lại lợi ích trước mắt, cũng như lâu dài cho quốc gia, cộng đồng và các tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi.

Theo đó, Nhà nước chỉ thực hiện thu hồi đất đối với các dự án đầu tư công hoặc dự án theo phương thức đối tác công tư, các dự án công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh và một số dự án công trình phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng khác.

Có thể thấy, trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam rất quan tâm tới việc xây dựng dự án Luật Đất đai (sửa đổi) bởi dự án luật này không chỉ là dự án luật lớn, quy mô rộng, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, chính trị, môi trường, quốc phòng - an ninh, tác động đến mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân, mà còn là một luật khó, thực tiễn tồn tại nhiều vướng mắc, phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của Nhân dân.

Từ nay đến khi dự án luật được Quốc hội thông qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp, đồng hành cùng cơ quan chủ trì soạn thảo để hoàn thiện dự thảo, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân.

Phùng Thị Ngọc Yến - Thạc sĩ, ban Dân chủ - Pháp luật,

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều