Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là sự kiện chính trị trọng đại không chỉ của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn là của toàn thể dân tộc Việt Nam bởi vận mệnh của Đảng và vận mệnh Dân tộc đã thực trở nên không thể tách rời.
Tại Đại hội, Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. [1]
Là lực lượng dẫn đường của dân tộc, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước. Việc đề ra đường lối đã quan trọng nhưng quan trọng hơn nữa là tuyên truyền và thực hiện thành công đường lối. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân. Sự phát triển vượt bậc của Việt Nam sau 36 năm đổi mới là minh chứng cho những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Do đó, nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Muốn đạt được những mục tiêu mà Đại hội đề ra thì việc học tập, quán triệt Nghị quyết vào cuộc sống là điều kiện tiên quyết. Để Nghị quyết của Đảng được hòa vào cuộc sống thì công tác giảng dạy lý luận chính trị nói chung, triết học nói riêng tại các cơ sở đào tạo đại học có vai trò rất to lớn; mặt khác, công tác này còn góp phần hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học ở thế hệ trẻ, giúp họ hiểu và tin tưởng vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã sáng suốt lựa chọn và dày công vun đắp.
|
Lễ bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Anh: Quân đội nhân dân |
I. Tính tất yếu của việc quán triệt Nghị quyết của Đảng vào giảng dạy Triết học Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng vẫn thể hiện được sức sống mãnh liệt bằng chính những thành tựu, giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn. Những giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin được thể hiện ở thế giới quan duy vật, phương pháp biện chứng, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...
Ở nước ta, kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng cho đến nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn được khẳng định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước đã trở thành một nguyên tắc trong đường lối đổi mới của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Sự vận dụng sáng tạo và khoa học Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể cách mạng Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đem đến những thắng lợi cho dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, Nghị quyết đúng đắn đã đem đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, sự xác định đúng đắn nhiệm vụ cách mạng của hai miền trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), trong đó Miền Bắc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phương, Miền Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trở thành tiền tuyến có vai trò quyết định trực tiếp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Đường lối lãnh đạo khoa học, đúng đắn của Đảng đã đem đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, non song thu về một mối (30/4/1975).
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) qua 35 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. [2]. Như vậy, đường lối đổi mới đất nước cũng là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì đòi hỏi Đảng ta phải phải kiên định đường lối đổi mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập, tự do cho dân tộc, đưa đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau 35 năm đổi đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đã tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phản ánh đúng quy luật tất yếu khách quan về mối quan hệ giữa đổi mới và phát triển, giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [3]. Sau hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành gắn liền với vận mệnh dân tộc, cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định với những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những nguyên tắc này không cứng nhắc mà có sự bổ sung, phát triển trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Việc quán triệt quan điểm của Đảng trong giảng dạy triết học Mác-Lênin là xuất phát từ yêu cầu phát triển và bản chất của triết học Mác-Lênin.
Mối liên hệ giữa triết học và các quan điểm của Đảng trong giảng dạy triết học Mác-Lênin có thể được tạo ra khi một quan điểm của Đảng được nhiều nguyên lý triết học Mác-Lênin luận chứng. Lịch sử cho thấy, triết học ra đời do nhu cầu của thực tiễn xã hội. Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều trường phái triết học, nhưng triết học nào cũng là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định; cái khác nhau chỉ là ở chỗ, trường phái triết học nào phản ánh một cách đầy đủ và đúng đắn tồn tại xã hội. Giảng dạy và nghiên cứu triết học Mác- Lênin nếu không dựa vào những tài liệu thực tiễn được khái quát trong các quan điểm của Đảng thì sẽ không thể tiếp cận được những vấn đề lớn của thời đại, sẽ kìm hãm sự phát triển của triết học Mác-Lênin.
C.Mác từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” [4]. Đánh giá vai trò và ý nghĩa to lớn của lý luận chính trị, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [5]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lý luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tế là lý luận suông” [6], đó là thứ lý thuyết xa rời thực tiễn và không giúp ích gì cho cuộc sống.
Theo tinh thần của V.I.Lênin, chúng ta không được coi những nguyên lý của triết học Mác-Lênin là những giáo điều khô cứng, xa rời cuộc sống, mà phải coi đó là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn.
Thời gian qua, giảng viên lý luận chính trị tại các trường đại học ở Việt Nam đã có nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của môn học, đã thường xuyên tìm các giải pháp nâng cao chất lượng môn học, đặc biệt chú trọng việc cụ thể hóa lý luận, đã gắn lý luận với thực tiễn, làm cho chất lượng các môn lý luận được giữ vững và nâng cao, nhiều bài giảng hay thu hút được sự quan tâm, chú ý, tích cực học tập của người học. Tuy nhiên, không ít giảng viên mới chỉ trang bị đủ kiến thức cơ bản mà ít đưa các yếu tố thực tiễn vào để phân tích, định hướng tư tưởng và hướng dẫn hành động cho sinh viên, dẫn đến nhiều bài giảng thiếu sức sống, không thuyết phục, không theo kịp sự vận động của thực tiễn đang là một hiện tượng khá phổ biến hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nội dung chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành”.
Triết học Mác-Lênin là vũ khí lý luận của Đảng.
Những thế lực thù địch thường xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận quan điểm của Đảng. Triết học Mác-Lênin có nhiệm vụ làm sáng tỏ cơ sở khoa học trong các quan điểm của Đảng. C.Mác đã nói: "Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình".
Quán triệt quan điểm của Đảng trong giảng dạy triết học Mác-Lênin còn làm cho bài giảng có được một nội dung sinh động, thiết thực, tránh tình trạng lý thuyết suông, khô khan, nhàm chán, giúp cho người học nắm chắc nội dung triết học và ý nghĩa sâu sắc của nó. Có thể khẳng định rằng, trong giảng dạy triết học Mác-Lênin, nếu chưa quán triệt được các quan điểm của Đảng thì chưa thể coi là một bài giảng đầy đủ và hoàn thiện.
Như vậy, quán triệt quan điểm của Đảng trong giảng dạy triết học Mác-Lênin là sự kết hợp những nội dung khoa học của triết học Mác-Lênin với các quan điểm của Đảng được thể hiện trong các văn kiện đại hội nhằm làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn của các nguyên lý triết học Mác-Lênin cũng như cơ sở lý luận trong quan điểm của Đảng.
II.Vận dụng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào bài giảng Triết học Mác-Lênin
So với các kỳ Đại hội trước, dung lượng các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng lớn hơn. Cụ thể, Văn kiện Đại hội XII có 447 trang nhưng Văn kiện Đại hội XIII gồm 2 tập với tổng số 646 trang. Thời lượng giảng dạy chuyên đề Triết học Mác-Lênin là 3 tín chỉ trong khi dung lượng văn kiện lại tăng lên thì điều quan trọng là giảng viên phải lựa chọn cho được những nội dung căn cốt nhất để bổ sung vào bài giảng. Cụ thể, bài giảng phải cập nhật thêm các nội dung mới sau đây để không bị rơi vào tình trạng lạc hậu về kiến thức.
1. Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội
Khi đề cập đến vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội, Đại hội XIII của Đảng chỉ ra thực trạng thế giới: “Trong những năm tới dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hâu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta” [7].
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có tầm bao quát cao, không chỉ đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ Đại hội XII hay 10 năm thực hiện Cương lĩnh sửa đổi (2011-2021) mà còn bao quát toàn bộ tiến trình đổi mới của đất nước trong 35 năm qua. Lần đầu tiên, Báo cáo chính trị tự tin khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [8]. Một điều đáng chú ý là những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và sự tăng trưởng kinh tế 2,91% - mức tăng trưởng tốt so với thế giới của Việt Nam, cũng đã được bổ sung vào Văn kiện Đại hội XIII. Trên cơ sở những kết quả đạt được và ý chí vươn lên mãnh liệt, Đại hội đã khẳng định “không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước” [9].
Với khát vọng và quyết tâm mạnh mẽ, Đại hội XIII đã đặt ra kế hoạch phát triển ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đạt được mục tiêu là xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn; Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Như vậy, thời đại hiện nay có nhiều thay đổi, thực tiễn biến đổi nhanh, khó lường, chủ nghĩa xã hội hiện thực đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng vẫn được Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [10].
Việc đưa những nội dung mới này vào bài giảng sẽ góp phần củng cố trong sinh viên niềm tin vào Đảng, vào tương lai dân tộc và khơi dậy trong họ ý chí quyết tâm xây dựng đất nước.
2. Quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Quan điểm này đòi hỏi khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng phải xem xét các mặt, các mối liên hệ, xác định được mối liên hệ cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ yếu… để có hướng tác động phù hợp. Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đưa ra giải pháp đồng bộ, sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhưng có trọng tâm, trọng điểm để cải tạo sự vật, hiện tượng một cách hiệu quả nhất.
Quan điểm toàn diện thể hiện rất rõ nét trong nội dung về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo của Đảng: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” [11]. Đảng ta cũng xác định “Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. [12]; “phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh” [13].
Quan điểm toàn diện đòi hỏi tránh sự chiết trung, nguỵ biện, cào bằng vị trí của các mối liên hệ hoặc đánh tráo vai trò của các mối liên hệ. Đại hội XIII của Đảng đã xác định vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế, từ đó có những chính sách phù hợp để phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế: “kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường…; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất kinh doanh…; kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao…; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu” [14].
Trên cơ sở xác định vai trò của các thành phần kinh tế, quán triệt quan điểm toàn diện, Đảng ta đã đưa ra chiến lược xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với từng thành phần kinh tế. Đảng ta xác định: “Tiếp tục phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là trong những ngành, lĩnh vực then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, lớn mạnh về quy mô, nâng cao về chất lượng. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà trọng tâm là hợp tác xã, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, liên kết hộ. Chuyển trọng tâm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ và giá trị gia tăng cao, mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan toả, kết nối với khu vực kinh tế trong nước” [15].
Để thực hiện các định hướng đề ra tại Đại hội XIII, Đảng ta đã khẳng định cần giải quyết và phát triển toàn diện, hài hoà các mặt, các mối quan hệ xã hội: “xử lý tốt các mối quan hệ lớn: giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ mới được được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [16].
Có thể thấy rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự khái quát sâu sắc và toàn diện về phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Nội dung Nghị quyết được xây dựng trên cơ sở kế thừa, bổ sung, phát triển văn kiện, nghị quyết của các nhiệm kỳ trước. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển về trình độ nhận thức và tư duy lý luận trong tổng kết thực tiễn của Đảng.
3. Quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển được rút ra từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Quan điểm này chỉ ra rằng mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong khuynh hướng vận động, phát triển nên khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi để có những giải pháp tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển theo hướng tích cực hoặc kìm hãm sự vận động, biến đổi theo hướng tiêu cực.
Nghị quyết Đại hội XIII với tính cách là sản phẩm kết tinh, kế thừa và phát triển những thành tựu lý luận, thực tiễn qua các chặng đường lãnh đạo của Đảng; là sự biểu hiện tập trung của trí tuệ, tư duy, tầm nhìn, ý chí kiên định và tinh thần đổi mới sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, đã khái quát nhiều quan điểm, tư tưởng mới, sâu sắc, có tính bao trùm, khẳng định quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; là cơ sở góp phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội. Do đó, mỗi cán bộ, giảng viên khi quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội XIII vào giảng dạy Triết học Mác-Lênin cần nắm vững nguyên tắc phát triển.
Đại hội XIII của Đảng đã không chỉ nhận thức được bối cảnh hiện tại mà còn chỉ ra xu thế của thời đại: “Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn….; kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh mẽ đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu” [17].
Quan điểm phát triển yêu cầu phải phân chia quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn để tìm cách tác động, giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể qua các giai đoạn:
Đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
4. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử có tính phổ biến, tác động đến toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phải thiết lập một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Lý luận này là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đây là quy luật chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người nói chung, là quy luật được Đảng ta đề cập qua các kỳ đại hội, là một trong những mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong quá trình thực hiện phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đảng khẳng định: “tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [18]. Đây là một trong những động lực cho sự phát triển của xã hội ở nước ta.
Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đại hội XIII đề ra là nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn trong đó có quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [19]. Mối quan hệ này phản ánh quy luật vận động và phát triển cơ bản của xã hội loài người. C.Mác đã từng chỉ rõ: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [20]. Yêu cầu của quy luật này là phải tạo ra được sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Về quan hệ sản xuất, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [21].
Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, phải là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Trong bối cảnh lực lượng sản xuất của chúng ta chưa phát triển, không đồng đều thì việc sử dụng nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo càng trở nên cần thiết và hoàn toàn phù hợp với quan điểm của V.I.Lênin về sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất, Đảng ta hết sức coi trọng việc phát triển lực lượng sản xuất, trong đó phát triển nguồn nhân lực (người lao động - yếu tố hợp thành quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, hay như V.I.Lênin nói công nhân, người lao động là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại”), nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - được coi là một trong những đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và cho cả những năm tiếp theo.
Một nội dung không kém phần quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất cần phải được quán triệt theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [22]. Trước mắt cần phải “Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới” [23]. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc “phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị” [24], làm cho tri thức khoa học, tri thức xã hội phổ biến chuyển hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp (C.Mác).
Hiện nay, chúng ta đang sống trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức, của quá trình chuyển động từ thế giới “tròn” sang thế giới “phẳng”, một thời kỳ mở ra nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức đối với tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam không là ngoại lệ. Để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc tinh thần của Đại hội XIII của Đảng, thực sự coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
5. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Đây là một trong những nội dung quan trọng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, được biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất ở biện chứng giữa kinh tế với chính trị. Để làm sâu sắc hơn nội dung các quan điểm trên đây của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đòi hỏi chúng ta phải tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng, bổ sung, phát triển lý luận phù hợp với thực tiễn.
Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình thế giới, khu vực trải qua những biến động to lớn, với những diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ và không ít khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi phải được giải quyết một cách kịp thời... nhưng nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, như Đại hội XIII đánh giá: “tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện” [25].
Thành tựu về kinh tế đã tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có chính trị. Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [26].
Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay - như Đại hội XIII đánh giá: “Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện” [27]. Cùng với đó là “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp... Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu... Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi... Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng” [28]. Đây thực sự là những trở lực lớn đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng trong thể hiện ở chỗ tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có khả năng tác động trở lại cơ sở hạ tầng, củng cố, phát triển hoặc kìm hãm cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Việc hoàn thiện kiến trúc thượng tầng để phát huy vai trò của nó được Đảng ta cụ thể hoá trong đột phá chiến lược: “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát Triển…” [29].
Đề cập đến nội dung về “hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; trên lĩnh vực chính trị, có thể lồng ghép thêm những nội dung được đề cập trong Văn kiện như: công tác xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một số quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá, chính sách về tôn giáo… Như vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được biểu hiện cụ thể qua mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, điều này phải được nhận thức một cách rõ ràng, giải quyết một cách hài hoà tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời giữ vững ổn định chính trị.
6. Vấn đề nhà nước
Đại hội XIII của Đảng thể hiện mạnh mẽ quyết tâm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là một trong những định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021 - 2030 cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [30]. Nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo... Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước” [31].
Đại hội XIII đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh; xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, Đại hội XIII chủ trương “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước... Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân” [32]. Cần nhận thức sâu sắc rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước trong tình hình mới. Hạn chế này cần phải sớm khắc phục để góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì sự phát triển bền vững của đất nước.
7. Vấn đề con người
Đại hội XIII của Đảng chỉ đạo: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [33]. Trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, Đại hội XIII chủ trương: Xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại...
Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức, trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam” [34], đồng thời với đó phải: “Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội... Từng bước vươn lên khắc phục hạn chế của con người Việt Nam” [35]. Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định rõ cần thiết phải: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người, gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”.
III. Một số kiến nghị
Để quán triệt quan điểm của Đảng trong giảng dạy lý luận chính trị nói chung, Triết học Mác-Lênin, cần thực hiện một số phương hướng cơ bản sau:
1. Giải pháp về phía các cơ quan chức năng
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”. Lý luận chính trị là những nội dung được khái quát, đúc kết từ thực tiễn, luôn bám sát thực tiễn. Do thực tiễn luôn vận động biến đổi, luôn xuất hiện nhiều vấn đề mới đòi hỏi lý luận phải khái quát, luận giải, làm sáng tỏ. Do đó, việc đổi mới chương trình giảng dạy các môn lý luận chính trị phải theo hướng bám sát thực tiễn. Nội dung giảng dạy các môn lý luận chính trị cần thiết thực, hướng đến phát triển những phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác của sinh viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công việc. Các nội dung giảng dạy cần có sự liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp và sự phát triển của thực tiễn cuộc sống; phải bảo đảm tính vừa toàn diện, vừa chuyên sâu, thiết thực.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, tăng tính thực tiễn trong giảng dạy các môn học này nói riêng, vấn đề xây dựng đội ngũ giảng viên giữ vị trí quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên” [36]. Thực tiễn cho thấy, để tăng tính thực tiễn trong các bài giảng lý luận chính trị, bên cạnh việc thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, cần chú trọng đến xây dựng đội ngũ giảng viên với trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp tốt. Nếu bản thân giảng viên không thường xuyên học tập, nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, tác phong công tác thì sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục lý luận chính trị.
Đảng ủy và Ban Giám hiệu các cơ sở đào tạo đại học cần quan tâm và xác định rõ chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị, tăng tính thực tiễn trong giảng dạy các môn học này. Chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai có hiệu quả kế hoạch đổi mới, nâng cao chất lượng bài giảng. Kết hợp chặt chẽ và vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp giảng dạy tích cực, tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc, kịp thời phát hiện những biểu hiện sai sót.
Các bộ phận quản lý đào tạo và bảo đảm chất lượng giáo dục… cần đề cao trách nhiệm trong công tác tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc các khoa giảng dạy lý luận chính trị thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và tăng tính thực tiễn trong giảng dạy các môn lý luận chính trị nói riêng; đồng thời có các biện pháp phù hợp nâng cao nhận thức của sinh viên về vị trí, vai trò của các môn lý luận chính trị trong chương trình giáo dục, đào tạo; đề cao trách nhiệm của sinh viên trong học tập các môn khoa học lý luận chính trị.
Lãnh đạo, quản lý các khoa, bộ môn lý luận chính trị là lực lượng có vai trò quan trọng, trực tiếp chỉ đạo việc nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng tính thực tiễn trong các nội dung giảng dạy lý luận chính trị. Thường xuyên quan tâm, phổ biến cho giảng viên hiểu rõ vị trí, vai trò của các môn lý luận chính trị đối với việc hình thành, phát triển và hoàn thiện mô hình con người mới, đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định rõ yêu cầu trong mỗi bài giảng, hướng tới xây dựng ở sinh viên những nội dung thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng, có nhận thức sâu sắc về đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, tránh sai lầm, mất phương hướng, góp phần hiện thực hóa các quan điểm, đường lối, chính sách trong thực tiễn.
Chú trọng mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức giúp các giảng viên chủ động học tập, nghiên cứu các tài liệu chuyên ngành, liên ngành để mở rộng, đào sâu sự hiểu biết tri thức lý luận chính trị; tăng cường nghiên cứu, trao đổi, thảo luận trong nhóm chuyên môn và vận dụng giải quyết từng vấn đề theo yêu cầu của đổi mới giảng dạy các môn lý luận chính trị.
2. Giải pháp về phía đội ngũ cán bộ giảng dạy
Nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII vào giảng dạy nội dung triết học là quá trình biện chứng giữa nghiên cứu, học tập, quán triệt và trực tiếp tham gia tuyên truyền Nghị quyết của Đảng. Để quán triệt được quan điểm của Đảng trong giảng dạy, việc nghiên cứu kỹ và thấu hiểu những nội dung trong văn kiện của Đảng là một yêu cầu không thể thiếu. Để hiểu được các quan điểm của Đảng một cách sâu sắc hơn, cán bộ giảng dạy cần vận dụng triết học Mác-Lênin để làm sáng tỏ nền tảng lý luận, cơ sở khoa học của các quan điểm; đây là mức độ cao của nhận thức triết học và nhận thức các quan điểm của Đảng. Để đạt được trình độ này, người cán bộ giảng dạy phải kiên trì học tập, nghiên cứu, thường xuyên theo dõi sự phát triển quan điểm của Đảng trong các văn kiện đại hội, tìm hiểu các chuyên khảo về những vấn đề triết học gắn với thực tiễn, đồng thời so sánh với những nội dung của các kỳ đại hội trước đây để nhận thức rõ sự kế thừa, bổ sung, phát triển tư duy, lý luận của Đảng. Đội ngũ cán bộ giảng dạy phải là những người tiên phong trong việc đóng góp, bổ sung hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng cho phù hợp với sự vận động, biến đổi của thực tiễn.
Bên cạnh việc nắm chắc nội dung quan điểm của Đảng, đội ngũ cán bộ giảng dạy còn phải nắm chắc nội dung triết học Mác-Lênin cũng như xác định rõ đối tượng truyền đạt, trên cơ sở đó, lựa chọn quan điểm của Đảng để đưa vào bài giảng cho phù hợp. Nếu không hiểu thực chất các vấn đề triết học thì không thể lựa chọn được các quan điểm của Đảng phù hợp với nội dung triết học.
Mỗi cán bộ giảng dạy cần xác định rõ trách nhiệm học tập, quán triệt Văn kiện không chỉ là thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, mà cao hơn là truyền thụ đường lối, quan điểm của Đảng đến người học, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và góp phần đẩy nhanh việc hiện thực hóa chủ trương, đường lối đó vào đời sống, qua đó góp phần củng cố niềm tin, uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh làm thất bại luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Đội ngũ cán bộ giảng dạy cần chủ động sinh hoạt chuyên môn để thảo luận, thống nhất, cập nhật vào bài giảng những quan điểm, nhận thức và định hướng mới của Đại hội XIII mà các chương trình, giáo trình còn thiếu hoặc chưa thể hiện đầy đủ; chủ động thay thế những nội dung đã lạc hậu, những nội dung không còn phù hợp; rà soát lại để chính xác hóa các khái niệm, các thuật ngữ, bảo đảm tính khoa học, tính hệ thống và sát với những nội dung, tinh thần của Đại hội XIII. Trong quá trình quán triệt chủ trương của Đảng vào bài giảng, cần phải rất linh hoạt, vừa toàn diện, vừa trọng tâm, tránh sự chung chung, sa đà hoặc hời hợt, phiến diện, làm mờ nhạt tính khoa học trong các quan điểm của Đảng, làm cho mối quan hệ giữa triết học Mác-Lênin và các quan điểm của Đảng trở nên bị lắp ghép một cách rời rạc và cứng nhắc. Muốn được như vậy, người cán bộ giảng dạy phải thường xuyên học hỏi, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn.
Tích cực tham gia nghiên cứu khoa học để có điều kiện bổ sung kiến thức mới cho công tác giảng dạy lý luận chính trị; tham gia các chương trình khảo sát, tìm hiểu thực tế tại các địa phương, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng, doanh nghiệp, gặp gỡ trao đổi với cán bộ, đảng viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân; tham quan các các mô hình lao động sản xuất để trực tiếp thu thập những kiến thức thực tiễn sinh động, thời sự. Ngoài ra, mỗi giảng viên cần chủ động khai thác thông tin chính thống trên các phương tiện thông tin đại chúng, để cập nhật tri thức cũng như diễn biến thời sự trong nước và thế giới, qua đó có thực tiễn đa chiều, rộng lớn, được nhìn nhận, phân tích ở nhiều góc cạnh khác nhau.
|
Lễ bế giảng lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng (lớp thứ nhất, lớp thứ hai) năm 2019. |
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định năng lực tư duy tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để Đảng ta đi đến một kết luận: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [37].
Tuy nhiên, đất nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, thử thách: công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực còn nhiều khó khăn; một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội vẫn chưa đạt được, biến đổi khí hậu và những hậu quả của nó vẫn nặng nề, đại dịch Covid-19 diễn biến khó lường… Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình phức tạp vẫn tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước tình hình này, việc khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như vận dụng nội dung các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào giảng dạy Triết học Mác-Lênin có ý nghĩa rất quan trọng.
Giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học giữ vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng, tinh thần, hình thành phẩm chất, nhân cách, đạo đức cách mạng cho các thế hệ sinh viên, góp phần quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của các trường đại học. Các nội dung giáo dục lý luận chính trị nói chung, Triết học Mác-Lênin nói riêng có tính khái quát, trừu tượng cao, để cụ thể hóa lý luận, sáng tỏ vai trò dẫn dắt, soi đường của lý luận với sự phát triển của xã hội, qua đó giúp người học dễ nắm được bản chất vấn đề, vận dụng tốt trong thực tiễn, lý luận phải được cụ thể hóa, nghĩa là giảng dạy lý luận chính trị phải luôn trong mối quan hệ biện chứng với thực tiễn, gắn chặt với thực tiễn, lấy thực tiễn để chứng minh.
Quán triệt quan điểm của Đảng trong giảng dạy Triết học Mác-Lênin còn là một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn học này, góp phần thực hiện tốt hơn vai trò của triết học đối với việc hiện thực hoá nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song cơ bản vẫn là ở người cán bộ giảng dạy, cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc cả lý luận triết học lẫn các văn kiện đại hội Đảng nhằm cập nhật những chủ trương mới của Đảng vào giáo trình để nội dung bài giảng có hơi thở từ thực tiễn.
TS. Vũ Tiến Dũng
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
----------------------------------------
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. CTQG, Hà Nội. tr.33
2. Sđd. tr.103
3. Sđd. tr.25
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb. CTQG, H.1995, tr.9-10
5. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb. CTQG, H.2005, tr.95
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG-ST, H.2011, tr.94-97
7. Sđd. tr.30, 31
8. Sđd. tr.1
9. Sđd. tr.35
10. Sđd. tr.109
11. Sđd. tr.33, 34
12. Sđd. tr.44
13. Sđd. tr.45
14. Sđd. tr.129
15. Sđd. tr.45,46
16. Sđd. tr.119
17. Sđd. tr.105,106
18. Sđd. tr.39
19. Sđd. tr.119
20. C.Mác và F.Ăngghen, Toàn tập. Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993. tr.14,15
21. Sđd. tr.129
22. Sđd. tr.140
23. Sđd. tr.115
24. Sđd. tr.140
25. Sđd. tr.59
26. Sđd. tr.71
27. Sđd. tr.89
28. Sđd. tr.91,93
29. Sđd. tr.53
30. Sđd. tr.71
31. Sđd. tr.174,175
32. Sđd. tr.178,179
33. Sđd. tr.115,116
34. Sđd. tr.136
35. Sđd. tr.143
36. Sđd. tập 2. tr.236
37. Sđd. tr.103,104