Phát huy nguồn lực văn hóa - con người, tạo bước đột phá đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững

Đại hội XII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong bối cảnh hiện nay, cần có những giải pháp đồng bộ để phát huy các nguồn lực văn hóa Việt Nam, tạo bước đột phá đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

Văn hóa và nguồn lực văn hóa

Theo quan điểm duy vật của C. Mác, trong “đời sống hiện thực” của xã hội, các nhân tố vật chất và tinh thần luôn tác động lẫn nhau, gắn bó với nhau, tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển của lịch sử, trong đó kinh tế không phải là cái duy nhất quyết định. Văn hóa cũng là một trong những nhân tố quy định sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội. Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, văn học, nghệ thuật... là dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả sự phát triển đời sống đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế.

Liên hợp quốc đưa ra quan niệm về phát triển trong thời đại ngày nay (tại buổi phát động “Thập kỷ quốc tế văn hóa vì phát triển” ngày 21-1-1988 ở trụ sở Liên hợp quốc) là, phát triển có nghĩa là sự thay đổi, nhưng thay đổi không phải sẽ tạo nên sự khác biệt mà nó sẽ tạo ra những đặc tính, đặc trưng của xã hội và cá nhân. Điều đầu tiên và trên hết, sự thay đổi phải mang lại cuộc sống phồn vinh và có chất lượng được mỗi cộng đồng chấp nhận... Quan niệm này cho thấy phát triển là sự thay đổi hướng tới con người, hướng tới xã hội, làm tăng phẩm chất người và tính đa dạng xã hội, tạo ra những đặc tính, đặc trưng của xã hội và cá nhân; phát triển hướng tới sự công bằng không phải sẽ tạo nên sự cách biệt, mà gắn với tiến bộ xã hội, mang lại cuộc sống phồn vinh và có chất lượng; phát triển phải phù hợp với đặc điểm, trình độ của mỗi cộng đồng, không mang tính áp đặt, cưỡng bức, phải được mỗi cộng đồng chấp nhận, nó mang tính đa dạng văn hóa, mang tính nhân văn, nhân bản. Phát triển gắn với vai trò của văn hóa sẽ được khởi đầu và truyền bá bởi văn hóa. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển.

Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F. May-ơ từng nhấn mạnh rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển khoa học nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát triển cũng là hai mặt gắn liền với nhau. Hễ nước nào tự đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy, phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa. Văn hóa cần là một nguồn bổ sung trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội(1).

 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thăm, chúc Tết Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Yên Bái dịp Xuân Kỷ Hợi 2019 (Trong ảnh: Thiếu nhi đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái tặng hoa chào đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng) _Ảnh: TTXVN

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã mở ra công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Cùng với sự đổi mới về tư duy kinh tế, Đảng đã có những tìm tòi, đổi mới sâu sắc trong tư duy về văn hóa, khẳng định sâu sắc hơn nữa vai trò và tác động của văn hóa trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp tục quan điểm Đại hội VI của Đảng, Đại hội VII của Đảng đã nhấn mạnh cần coi trọng động lực kinh tế và động lực tinh thần của sự phát triển: “Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần thực hiện hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hộiphát huy lòng yêu nước và tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng và kháng chiến, ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, tạo ra phong trào quần chúng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh”(2).

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (năm 1993) nêu rõ, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và phát triển, là bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vai trò to lớn, sâu sắc của văn hóa trong phát triển.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển - kinh tế - xã hội... Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, luật pháp, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển(3). Không dừng lại ở việc nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển, kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (năm 2004) đã xác lập vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh lực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” khẳng định, văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Như vậy, văn hóa không đứng ngoài sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa nằm bên trong (là nhân tố nội sinh) vừa là mục tiêu, vừa là động lực - nguồn lực và là hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế - xã hội. “Nguồn lực văn hóa” được dùng với nhiều tên gọi khác nhau như “vốn văn hóa”, “nguồn lực nội sinh”, “nguồn lực con người”, “nguồn lực mềm” hay “động lực tinh thần”...

Năm 1988, trong buổi lễ phát động Thập kỷ quốc tế văn hóa vì phát triển (1988 - 1997), Liên hợp quốc đưa ra quan niệm văn hóa là động lực cho phát triển. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy, phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm thấy trong văn hóa...

Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu tinh thần của thời đại, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật..., phải biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Tuy vậy, sự tiếp cận văn hóa như là nguồn vốn - nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn khá mới mẻ. Song khái niệm nguồn lực văn hóa có thể được hiểu là tổng thể các yếu tố văn hóa tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động kinh tế - xã hội. Nguồn lực văn hóa là sức mạnh vừa hữu hình, vừa vô hình, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo hướng nhân văn, nhân bản.

 

Văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc (Trong ảnh: Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại năm 2005) _Ảnh: Tư liệu

Như vậy, có thể thấy nguồn lực văn hóa gồm các yếu tố cơ bản sau:

Một là, nguồn lực con người (nguồn lực nội thể hóa) là năng lực tinh thần của chủ thể bao gồm: tri thức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, đạo đức, ý chí... kết tinh trong mỗi con người và chất lượng sống, sự hài lòng, hạnh phúc làm nên động lực tinh thần của con người trong hoạt động kinh tế và đời sống của họ.

Hai là, nguồn lực quan hệ xã hội - văn hóa được thể chế hóa thành những quy tắc, luật lệ, nguyên tắc ứng xử tạo thành môi trường văn hóa của hoạt động kinh tế, bao gồm: quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, cá nhân với cá nhân, con người với môi trường tự nhiên được văn hóa hóa, thẩm mỹ hóa.

Ba là, nguồn lực sản phẩm văn hóa được vật thể hóa thành các sản phẩm vật chất chứa đựng những giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm: di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh, sản phẩm thủ công mỹ nghệ chứa đựng các truyền thống, thị hiếu thẩm mỹ, nghệ thuật, uy tín, thương hiệu.

Phát huy các nguồn lực văn hóa - con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Gần đây, trong các cuộc bàn thảo về các giải pháp đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy sự phát triển đất nước một cách bền vững, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giải pháp đột phá quan trọng. Từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi cho rằng cần có các giải pháp khai thông, phát huy vai trò của các nguồn lực văn hóa trong sự phát triển đất nước. Song đã nói đến giải pháp “đột phá” thì phải là giải pháp cơ bản và quan trọng có tính bước ngoặt hoặc mới mẻ so với các giải pháp cũ đã được thực hiện hay là sự đặt lại vấn đề vượt qua các khuôn sáo cũ...

Trong các giải pháp phát huy nguồn lực văn hóa Việt Nam mang tính đột phá được bàn đến, chúng tôi cho rằng, vấn đề cần được quan tâm hiện nay là nguồn lực con người với tư cách là nguồn lực của mỗi cá nhân và gắn với nguồn lực cá nhân là quyền tài sản của cá nhân (sở hữu tư nhân) là yếu tố quan trọng.

Phát huy nguồn lực cá nhân (động lực cá nhân) theo quan điểm mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh thần nhân văn tiến bộ, lấy việc giải phóng con người làm mục tiêu, làm động lực của sự phát triển xã hội. Nó là sự kết tinh thành tựu của lịch sử phát triển nhân loại và tư tưởng của cuộc cách mạng tư sản trước đây mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa trong bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946. Tinh thần ấy đã được ghi trên ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản “Thay cho xã hội tư sản cũ... xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(4). Đó cũng là tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì con người, vì hạnh phúc, tự do của nhân dân khi khẳng định: nước độc lập, dân phải được hạnh phúc, tự do. Nhận thức của chúng ta hiện nay về động lực cá nhân hay nguồn lực nội thể hóa, vốn có ở cá nhân là nguồn lực văn hóa quan trọng đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” khẳng định, kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân với bản thân, gia đình và xã hội, trong đó cá nhân phấn đấu vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa các nguồn lực cá nhân và cộng đồng. Có thể thấy hiện nay, giá trị cá nhân, lợi ích cá nhân, sáng tạo cá nhân chưa được nhận thức đầy đủ và phát huy mạnh mẽ. Giá trị cộng đồng ngày nay phải là giá trị của sự gắn kết hữu cơ của những cá nhân tự do trên cơ sở lợi ích cá nhân gắn kết hài hòa với lợi ích của cộng đồng. Vì vậy, việc chỉ nhấn mạnh lợi ích cộng đồng là chưa đầy đủ theo tinh thần của thời đại. Cần coi trọng lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân như hai động lực biện chứng và bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau, thúc đẩy xã hội phát triển. Trong lịch sử nước ta, thời Trần đã chứng minh rằng, khi nhận thức được động lực cá nhân và gắn với động lực cộng đồng sẽ tạo nên “hào khí” vô cùng to lớn. Hưng Đạo Đại Vương, Tiết chế Quốc công Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy và gắn kết cái ta của mình với cái tôi của mỗi người dân Đại Việt làm nên sức mạnh ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, bảo vệ độc lập dân tộc. Ông ý thức rằng, giữ gìn được nền độc lập “chẳng những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền, mà bổng lộc của các ngươi cũng đời đời được hưởng, chẳng những gia quyến của ta êm ấm gối chăn mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão” (Hịch tướng sỹ). Đây là bài học lịch sử sâu sắc cho chúng ta trong thời đại ngày nay. Hơn nữa, chúng ta cần phê phán, lên án chủ nghĩa cá nhân ích kỷ nhưng không nên đưa giá trị cá nhân, lợi ích cá nhân chân chính vào nội hàm khái niệm “chủ nghĩa cá nhân” hay “cá nhân chủ nghĩa” chung chung. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải làm rõ giá trị cá nhân hay chủ nghĩa cá nhân (có người gọi đó là chủ nghĩa cá nhân triết học hay chủ nghĩa cá nhân đạo đức) trong động lực tinh thần của xã hội và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chống chủ nghĩa cá nhân (vị kỷ) không có nghĩa xóa bỏ lợi ích cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân chính đáng của mỗi con người.

Vấn đề đối xử với khát vọng tài sản của con người, xét về phương diện văn hóa là vấn đề liên quan đến quyền con người, đến nguồn lực con người và sự phát triển kinh tế - xã hội trong chủ nghĩa xã hội. Thực tế sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu đã cho thấy sai lầm có tính hệ thống khi kìm hãm khát vọng tài sản chân chính của người dân, xóa bỏ quyền sở hữu cá nhân của con người. Đó là hành động triệt tiêu động lực quan trọng của xã hội. Xét về phương diện văn hóa và pháp quyền, quyền con người (quyền nhân thân, quyền tự do, quyền tài sản...) là một giá trị, một thành tố cơ bản. Hơn nữa, quyền con người là một tiêu chí đánh giá trình độ sự phát triển của xã hội: “Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng...” (Hội nghị quốc tế của UNESCO ở Mê-xi-cô năm 1982). Tài quyền tức là quyền có tài sản, quyền về tài sản là một quyền tự nhiên do tạo hóa sinh ra, vốn có của con người. Nó là một nguồn lực động lực thúc đẩy con người trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Trước đây, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ, người ta đã loại bỏ động lực đó bằng việc xóa bỏ kinh tế tư nhân, thực hiện chế độ công hữu một cách triệt để. Trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực kiểu cũ ở Liên Xô và Đông Âu, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã từng bước tìm lại và phát huy sức mạnh tự thân của con người bằng việc quan tâm tới lợi ích cá nhân, sở hữu tư nhân bằng những chính sách đổi mới và cải cách; nhờ đó mà có những bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Có thể khái quát rằng, chúng ta đã tạo bước đột phá bằng giải pháp đột phá đưa đất nước phát triển và thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, “quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” (khoản 2, Điều 32, Hiến pháp năm 2013). Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 03-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” khẳng định quan điểm phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế.

 


Bảo tồn nét đẹp văn hóa đồng bào dân tộc Khmer _Ảnh: Tư liệu

Có thể thấy, giai đoạn đổi mới vừa qua chỉ là giai đoạn đầu của bước đột phá quan trọng này, giai đoạn tiếp theo chúng ta phải giải quyết hai vấn đề để sự đột phá thành công và bền vững: Thứ nhất, phải khẳng định quyền tư hữu của con người như một nguyên lý vĩnh viễn, lâu dài, là một nguồn lực vốn có của con người trong phát triển. Các chính sách phải bảo đảm cho nguồn lực đó được tích lũy và phát huy tác dụng. Thứ hai, phải có các giải pháp để chế ngự sức mạnh của “quyền tư hữu” nếu không mặt trái của nó (hiện tượng “lợi ích nhóm”, “sân trước, sân sau”, “chế độ thân hữu” nhằm chiếm đoạt tài sản xã hội...) sẽ tàn phá và có thể làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, ở nhiều nước có hiện tượng những người giàu có (tích lũy được nhiều của cải một cách chính đáng và cả không chính đáng) đã tìm cách ra nước ngoài cùng với khối tài sản to lớn. Đây là hậu quả của cả hai vấn đề đã nêu ở trên, cần được xem như bài học kinh nghiệm cần thiết.

Thời gian tới, chúng ta cần tích cực triển khai Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đưa nghị quyết vào cuộc sống và mang lại những hiệu quả thiết thực, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hai giải pháp trên mang tính đột phá để khai thông và phát huy các nguồn lực văn hóa - con người Việt Nam, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn tiếp theo./.

------------------------------
(1) Xem: Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa: Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội, 2002tr. 23
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 61
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 4, tr. 628.

 

Theo PGS, TS. LÊ QUÝ ĐỨC/Tạp chí Cộng sản

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều