|
Ảnh minh họa |
Nội hàm của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nêu cao khát vọng phát triển đất nước. Qua mỗi thời kỳ lịch sử, khát vọng đó lại được thể hiện qua nhiều mục tiêu cụ thể khác nhau. Nếu trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, khát vọng phát triển đất nước thể hiện qua khát vọng độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân thì ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, khát vọng đó là đất nước được giàu mạnh, Nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Khát vọng ấy chính là sợi chỉ đỏ, là cội nguồn sức mạnh để Đảng ta phát huy nội lực sẵn có, tận dụng ngoại lực để vượt qua những khó khăn, thử thách, đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt hơn 35 đổi mới.
Trên cơ sở của những thành tựu to lớn đó, cùng với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được khẳng định và lan tỏa, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã cụ thể hóa khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay là phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc với những mục tiêu cụ thể:
“- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”.
- Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”2.
Có thể nhận thấy, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc được thể hiện rất đậm nét từ chủ đề Đại hội đến Báo cáo chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030… Đây vừa là sự kế thừa và cụ thể hóa khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn tiếp tục đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Sở dĩ trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta nêu cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Về mặt khách quan, Đại hội XIII đã chỉ ra, tình hình thế giới diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan”3. Bên cạnh đó, tình hình khu vực cũng tiềm ẩn nhiều bất ổn: “Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”4. Để thích ứng với tình hình thế giới và khu vực như vậy, Việt Nam cần có sự phát triển bứt phá thì mới giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, cần có những quan điểm mới về phát triển đất nước.
Về mặt chủ quan, sau hơn 35 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”5. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới và phát triển đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức; trong đó “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn”6. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển khách quan, Đại hội XIII dự báo trong 5 năm tới, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn và sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Trong bối cảnh đó, đất nước cần có sự bứt phá trong sự phát triển; cần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc để tận dụng những thời cơ, vượt qua những thách thức.
Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không phải là một ảo tưởng xuất phát từ ý muốn chủ quan, duy ý chí, mà là một khát vọng bắt nguồn từ niềm tin vững chắc vào cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Ngoài ra, khát vọng đó còn xuất phát từ những kinh nghiệm và bản lĩnh của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc trong hơn 92 năm qua. Hơn nữa, khát vọng ấy còn được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong và ý chí kiên quyết khắc phục khó khăn, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển đất nước.
Có thể khẳng định, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay chính là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của dân tộc (đất nước phồn vinh) và lợi ích của Nhân dân (Nhân dân hạnh phúc). Đây là sự bổ sung kịp thời của Đảng vào đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn mới, tạo thành nội lực tinh thần to lớn giúp cho toàn dân tộc ta tiếp tục vượt qua những khó khăn, thử thách để thực hiện được những mục tiêu cao đẹp trong thời gian tới.
Vai trò của phát huy sức mạnh văn hóa Việt Nam trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Văn hóa vốn là những giá trị vật chất và tinh thần được con người tích lũy trong cuộc sống hàng ngày và trao truyền cho thế hệ sau. Ngoài ra, “Văn hóa chính là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người biểu hiện trong các kiểu, trong các cách thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong tổ hợp các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần cùng các chuẩn mực hành vi do con người sáng tạo ra để điều chỉnh hành vi con người và được tích lũy lại, được làm phong phú thêm trong quá trình con người tương tác với thiên nhiên và trong quan hệ với nhau trong xã hội”7. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường quốc dân đi” để khẳng định vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống con người cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Có ý kiến cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Vǎn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”8. Trong những năm qua, Đảng ta luôn đề cao vai trò của văn hóa và coi việc phát huy sức mạnh văn hóa là điều kiện, tiền đề để hiện thực hóa khát vọng phát triển con người. Phát huy giá trị văn hoá Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng ta đề ra trong các văn kiện, nghị quyết. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, việc phát huy sức mạnh văn hóa càng trở nên quan trọng hơn lúc nào hết, bởi lẽ thực tiễn cho thấy, nếu quốc gia nào không giữ được bản sắc thì không những bị hoà tan trong thế giới rộng lớn, mà còn có nguy cơ mất nước vì “mất văn hoá là mất tất cả”.
Vì sức mạnh văn hóa bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam được tích lũy qua hàng ngàn năm lịch sử và đến lượt mình lại trao truyền cho thế hệ sau nên khi sức mạnh văn hóa được phát huy, con người Việt Nam sẽ được gia tăng thêm năng lực, phẩm chất, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, thử thách; vươn đến những mục tiêu lớn hơn, khát vọng cao đẹp hơn. Sức mạnh văn hoá chính là nguồn lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia, bởi văn hoá chính là sức mạnh mềm của dân tộc. Văn hoá giúp quảng bá hình ảnh đất nước, tạo ra sự hấp dẫn cho không chỉ các sản phẩm và dịch vụ văn hoá, mà còn cho cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Chính vì lý do đó, nhiều nước trên thế giới coi văn hoá, công nghiệp văn hoá là một bộ phận của nền kinh tế. Những bài học của các nước như Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... trong việc quảng bá các sản phẩm giải trí để mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước, đồng thời đưa các giá trị văn hoá dân tộc của họ lan toả khắp thế giới chính là những kinh nghiệm quý để chúng ta phát triển văn hoá như là một sức mạnh mềm cho phát triển bền vững đất nước. Do đó sức mạnh văn hóa được coi là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước nói riêng.
Ở Việt Nam, điều này đã được thể hiện rất rõ trong lịch sử dân tộc. Trong những thời điểm cam go nhất, khi sức mạnh văn hóa được phát huy như truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái... con người Việt Nam đã vượt qua được giới hạn của bản thân, định kiến của xã hội để thực hiện khát vọng phát triển. Sự chuyển mình từ thời kỳ bao cấp sang thời kỳ đổi mới đã cho thấy rất rõ điều đó. So với những khó khăn của thời kỳ trước đổi mới với giai đoạn hiện nay - khi mà cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được khẳng định; khát vọng của con người Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi. Trước đây, nếu như chỉ mong muốn có cuộc sống ấm no, từng bước thoát khỏi khủng hoảng, trì trệ thì ngày nay, nhân dân Việt Nam lại mang trong mình khát vọng về một cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Rõ ràng là, việc phát huy sức mạnh văn hóa chính là điều kiện, tiền đề để con người Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển, giúp cho khát vọng đó từng bước được hiện thực hóa.
Nhận thức được vai trò của việc phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển đất nước, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm rất quan trọng. Đó là: “Phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển và sức mạnh của nhân dân. Thực tế qua thời gian phòng, chống đại dịch Covid-19 và khắc phục hậu quả thiên tai, muốn thành công phải khơi dậy được tinh thần đoàn kết, nhân ái của Nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp, cùng chung tay hành động, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân và các giá trị văn hoá dân tộc”9. Đây là bài học kinh nghiệm rất quý giá được rút ra từ quá trình tổng kết thực tiễn phát triển đất nước thời gian qua, nhất là trong giai đoạn phòng chống Covid-19 với nhiều cam go, thách thức.
Nhờ có sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, trong thời gian qua, sức mạnh của văn hóa Việt Nam đã từng bước được phát huy và mang lại những thay đổi tích cực trong đời sống xã hội, góp phần để nước ta có một vị thế ngày càng vững chắc. Tuy nhiên, yêu cầu đặt ra, việc phát huy sức mạnh văn hóa vẫn cần được tiếp tục chú trọng hơn nữa. Do đó, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định một trong những đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật”10.
Giải pháp phát huy sức mạnh văn hóa Việt Nam trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Để phát huy tốt sức mạnh văn hóa Việt Nam trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần chú trọng đến những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân về vai trò của phát huy sức mạnh văn hóa Việt Nam trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Các ban, ngành, đoàn thể, địa phương cần coi đây là một nhiệm vụ cơ bản, vừa lâu dài, vừa cấp bách và cần phải được quán triệt sâu sắc trong cán bộ, đảng viên, nhân dân để chuyển hóa thành sức mạnh cả về tinh thần và vật chất to lớn của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa chủ trương phát huy sức mạnh văn hóa trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thành những quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, trong các cơ chế, chính sách để tổ chức triển khai trong thực tiễn. Việc thể chế hóa phải theo hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định có tính pháp quy, các chính sách ưu tiên đầu tư để phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Các bộ, ngành và địa phương cần xây dựng chương trình, kế hoạch hành động để phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người ở cơ quan, đơn vị, xây dựng các chỉ tiêu, tiêu chí phấn đấu cụ thể để thực hiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, gắn với khơi dậy khát vọng của các tầng lớp nhân dân với phát huy giá trị văn hóa của mỗi dân tộc, vùng, miền.
Ba là, phát huy vai trò của các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh và truyền hình trong việc tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ động viên Nhân dân nêu cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh; phát huy giá trị văn hóa Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa nói chung, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, truyền thông đại chúng nói riêng có vị trí đặc biệt trong tuyên truyền, cổ vũ, lan tỏa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thông qua các kênh thông tin và truyền thông khác nhau. Các hoạt động này có khả năng thuyết phục sâu sắc thông qua việc truyền cảm hứng về niềm tin, về khát vọng tạo động lực để mỗi người, mỗi cộng đồng quyết tâm phấn đấu vì sự phát triển của quê hương, đất nước. Các bộ, ngành, địa phương cần có những bước đột phá, trong đổi mới các nội dung, chương trình hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và truyền thông đại chúng để cổ vũ tinh thần, động viên, khích lệ Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ cho phát triển văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo ra nền tảng tinh thần cho quá trình phát triển bền vững đất nước. Tăng chi ngân sách nhà nước vào lĩnh vực văn hóa, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách xã hội hóa nhằm thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực này. Nhà nước chú trọng xây dựng một số công trình văn hóa, nghệ thuật trọng điểm tầm cỡ khu vực và quốc tế, ưu tiên phát triển một số lĩnh vực nghệ thuật đỉnh cao. Phát huy vai trò của dòng văn hóa, nghệ thuật chủ lưu để nâng tầm định hướng về tư tưởng, thẩm mỹ, đạo đức, lối sống và lan tỏa rộng trong đời sống xã hội.
Năm là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát huy giá trị văn hóa trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ và đột xuất. Kiên quyết đấu tranh, xử lý kịp thời những vi phạm cản trở sự phát triển đất nước, đặc biệt là tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực và tệ nạn xã hội, qua đó xây dựng và củng cố niềm tin của Nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Khát vọng phản ánh niềm ao ước, mong muốn thiết tha của con người về những điều lớn lao, tốt đẹp ở phía trước. “Khát vọng tuy là trạng thái tinh thần nhưng có sức mạnh chuyển hóa thành hành động. Nó chính là động lực tinh thần to lớn giúp cho chủ thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được mục tiêu đề ra. Khát vọng phát triển của một dân tộc là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn và có sức mạnh vô song”11. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là khát vọng thiêng liêng, cao đẹp của cả dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện khát vọng đó không thể không chú trọng đến việc phát huy sức mạnh văn hóa Việt Nam.
Chú thích:
1,2,3,4,5,6,10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr. 206, 36, 108, 107, 25, 106, 221-222.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn: Văn hóa ứng xử ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Triết học số 7/2020, tr.19-28.
8. Trần Ngọc Thêm (2020), “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong bối cảnh mới”, Tạp chí Tuyên giáo, số 7, tr.22.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr.80.
11. Nguyễn Viết Thông, “Khát vọng phát triển đất nước qua dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Tuyên giáo, tháng 5/2020, tr.11.
Lê Thị Chiên - Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Thành Thu Trang - Tiến sĩ, Học viện Chính trị khu vực I