Gắn phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở khu vực Tây Nguyên với đảm bảo an ninh, quốc phòng trong bối cảnh hội nhập hiện nay

(Mặt trận) - Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh của nước ta. Cùng với tiến trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, phát triển bền vững trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, cũng như trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trên địa bàn Tây Nguyên trong bối cảnh hiện nay. Việc triển khai thực hiện tốt, hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với Nhân dân các tỉnh Tây Nguyên.

Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng có diện tích khoảng 54,5 nghìn km2, chiếm 1/6 diện tích cả nước; lớn thứ 3 trong 6 vùng kinh tế - xã hội; nằm ở điểm giao biên giới ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam, tiếp giáp các vùng Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ; được xem là “phên dậu phía Tây của Tổ quốc”, là “nóc nhà của Đông Dương”. Sự ổn định và phát triển bền vững của Tây Nguyên có ý nghĩa tích cực và sâu rộng đối với sự ổn định và phát triển của đất nước.

Đây là vùng gồm 5 tỉnh (Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng) giàu tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong phát triển, giữ vai trò tâm điểm của kết nối Đông - Tây; có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh đối với cả nước; là vùng dự trữ chiến lược cho phát triển bền vững của quốc gia,... Chính vì vậy, ngày 6/10/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Trong đó, Nghị quyết tiếp tục xác định vùng Tây Nguyên có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trên nhiều mặt, như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh và đối ngoại,... của cả nước; xác định yêu cầu vừa phát triển vùng Tây Nguyên nhanh, vừa phải bền vững là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các địa phương trong vùng, mà còn với cả nước. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển vùng Tây Nguyên thông qua kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường,... gắn chặt với bảo đảm quốc phòng - an ninh và đối ngoại.

Có thể thấy, Đảng ta coi trọng và đặt việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường lên hàng đầu, làm nền tảng cho việc giữ vững quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị - xã hội; đồng thời, có sự chỉ đạo, bổ sung những quan điểm, định hướng phù hợp hơn, như phát triển vùng Tây Nguyên theo hướng đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng, liên kết chặt chẽ với vùng Đông Nam Bộ và các tỉnh, thành phố khu vực duyên hải Trung Bộ; đẩy nhanh kết nối với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, với các nước trong khu vực.

Có thể nói, Nghị quyết số 23-NQ/TW đã và đang tạo ra khí thế và động lực lớn thúc đẩy vùng Tây Nguyên phát triển toàn diện. Để hiện thực hóa những mục tiêu đề ra trong Nghị quyết, trong thời gian tới, các tỉnh khu vực Tây Nguyên cần nâng cao quyết tâm chính trị, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp đột phá, góp phần giải quyết các điểm nghẽn, vướng mắc, tạo nền tảng cho phát triển bền vững.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan trưng bày sản phẩm nông nghiệp vùng Tây Nguyên tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045_Ảnh: TTXVN 

Để triển khai đồng bộ, có hiệu quả vấn đề này trong thời gian tới, cần quan tâm, nghiên cứu một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, đối với khu vực Tây Nguyên, không thể tính toán lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt mà phải lấy hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh làm mục tiêu đầu tư phát triển. Mặt khác, phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên cần phải giải quyết đồng bộ các mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Trong đó, yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng cần quán triệt sâu sắc trong mọi chính sách phát triển ở khu vực Tây Nguyên, chú trọng gắn kết giữa khai thác tài nguyên với bảo vệ, tái tạo môi trường sinh thái; giữa phát triển kinh tế với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố hệ thống chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Việc quy hoạch, bố trí lại dân cư giữa các vùng cần gắn với yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước tăng thêm tiềm lực quốc phòng ở khu vực Tây Nguyên. Các đơn vị kinh tế - quốc phòng đóng quân trên địa bàn Tây Nguyên có nhiệm vụ khai thác tiềm năng đất đai, phân bố lại dân cư phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hình thành các cụm làng, xã biên giới tạo nên vành đai biên giới trong thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, các địa phương, ban, ngành phải chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.

Trong xây dựng cơ bản, luôn chú ý đến tính “lưỡng dụng” của các công trình, bảo đảm để cùng một chi phí có thể đạt cả mục đích kinh tế và mục đích quốc phòng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là ở các địa bàn trọng yếu, khu vực biên giới phải có kiến thức về quốc phòng, an ninh, đối ngoại để chủ động đối phó có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn chống phá nhiều mặt của các thế lực thù địch. Cần tăng cường nhận thức và tạo sự chuyển biến ý thức, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp trong việc kết hợp phát triển kinh tế với yêu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

Thứ hai, cần xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở có bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp cao, năng động, sáng tạo; bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có sự chuyển giao, kế thừa chặt chẽ giữa các thế hệ. Đồng thời, quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận, cán bộ nữ, cán bộ là người đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; phát huy cao độ truyền thống văn hóa, cách mạng, sự siêng năng, cần cù và ý chí tự lực, tự cường của Nhân dân.

Từ trước đến nay, buôn, làng là một bộ phận rất quan trọng và là địa bàn chủ yếu ở cấp cơ sở khu vực Tây Nguyên, do đó, cần chú trọng phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng; kết hợp phát huy hiệu quả các mô hình tự quản tại cộng đồng ở các cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, nhanh chóng có phương hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng diện tích cây ăn trái, tăng năng suất, giá trị sản phẩm, trong đó đặc biệt quan tâm khai thác, phát huy thế mạnh từng địa phương về nông nghiệp, du lịch, năng lượng tái tạo...; đồng thời, cần có giải pháp mạnh mẽ bảo vệ môi trường và hệ sinh thái rừng để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, cân bằng môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững. Ngoài ra, chú trọng phát triển các ngành nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh bền vững; hạn chế sử dụng chất hóa học và các biện pháp can thiệp xâm hại đất và hệ sinh thái tự nhiên ở khu vực này.

Thứ tư, tập trung giải quyết triệt để vấn đề đất đai do các yếu tố lịch sử để lại và mối quan hệ giữa đất đai, dân tộc và tôn giáo. Các địa phương khu vực Tây Nguyên phải tăng cường chất lượng công tác tuyên truyền, dân vận; nâng cao trình độ dân trí, phổ biến kiến thức chính trị, pháp luật, bảo đảm nền tảng cho phát triển kinh tế, góp phần xây dựng xã hội văn minh tiến bộ, văn hóa lành mạnh, tốt đẹp. Bên cạnh đó, cần tranh thủ nguồn lực từ việc triển khai các chương trình, chính sách hiện có trên địa bàn; thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, chồng chéo.

Thứ năm, nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược và tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân” ở khu vực Tây Nguyên. Bởi Tây Nguyên là khu vực có nhiều thành phần dân tộc, nhiều tôn giáo... Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên cần phải nhận thức rõ quan điểm của Đảng về xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, phong tục tập quán của đồng bào; đặc biệt coi trọng việc phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới.

Thực tiễn cho thấy, dân tộc và tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp... Các thế lực thù địch, phản động luôn lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo ở nước ta để thực hiện âm mưu chống phá cách mạng. Song, chúng có thể thực hiện đến đâu, như thế nào là tùy thuộc vào sức mạnh của chính chúng ta, vào sự bền vững của khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên. Do đó, quá trình phát triển ở khu vực Tây Nguyên cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; kết hợp đồng bộ cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ trong giai đoạn hiện nay.

Trong đó, mấu chốt của yêu cầu đặt ra là phát triển khu vực Tây Nguyên đủ sức miễn dịch với mọi sự tác động từ bên ngoài, có sự đề kháng cao trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Cùng với việc luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, phải tập trung phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của đồng bào, đặc biệt chú trọng đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ con em đồng bào các dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc nói chung và đồng bào các dân tộc khu vực Tây Nguyên nói riêng theo tinh thần các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng và Chính phủ về chính sách dân tộc, trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội về Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030...

Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước là ưu tiên đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc Tây Nguyên, trong đó có vấn đề ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số tham gia quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Ưu tiên phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một nhu cầu khách quan nhằm khắc phục các rào cản về điều kiện địa lý - tự nhiên, các di tồn lịch sử, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong suốt những năm qua, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính Phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, tổ chức thực hiện nhiều chương trình và đầu tư những nguồn lực lớn để phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên. Điện, đường, trường học, trạm y tế và nhiều công trình hạ tầng, phúc lợi khác ngày càng nhiều hơn trên những vùng đất Tây Nguyên. Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, trong đó có đồng bào các dân tộc khu vực Tây Nguyên, sự ưu tiên đầu tư phát triển của Đảng, Nhà nước đã từng bước làm thay đổi vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, cơ sở hạ tầng được đầu tư, tình trạng tụt hậu ngày càng được đẩy lùi, ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước ta là nhằm tạo cơ hội, môi trường, điều kiện thuận lợi để đồng bào dân tộc thiểu số tự phát triển chứ không phải là bao cấp, triệt tiêu tính tích cực, chủ động. Mọi nguồn lực ưu tiên đầu tư của Đảng và Nhà nước vẫn chỉ là yêu tố ngoại sinh, có ý nghĩa tạo môi trường cho sự phát triển, chứ không thể thay thế được bản thân sự phát triển tự thân của các dân tộc thiểu số. Chỉ trên cơ sở phát huy sức mạnh nội sinh của đồng bào các dân tộc thì mới có thể giải quyết được những vấn đề cội rễ đời sống của chính đồng bào và tạo ra khả năng phát triển bền vững khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Thứ sáu, vấn đề đặt ra là thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng như thế nào để vừa khai thác, phát huy cao nhất tiềm năng, thế mạnh của khu vực Tây Nguyên trong phát triển kinh tế, vừa đáp ứng được yêu cầu xây dựng, củng cố sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, vừa đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Trong đó cần có chính sách đầu tư, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội và dân tộc, đem lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho đồng bào các dân tộc khu vực này. Đặc biệt, cần có bước đột phá mạnh mẽ trong nhận thức, quan điểm về kết hợp kinh tế với quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên.

Nguyễn Duy Dũng - Thạc sĩ, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều