Thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay

(Mặt trận) - Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. 25 năm qua, Trung ương thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, từng bước củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cơ sở là trung tâm đoàn kết, quy tụ, tập hợp được mọi thành viên thành một khối thống nhất hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của tổ chức. Cơ sở vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi tham gia tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm, góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của Nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”1; “Dân là gốc của nước, của cách mạng”, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”, “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”2; “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”3.

Người đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa Nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của Nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”4, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”5. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số Nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân.

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh, được quản lý bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.

Quan điểm của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”6. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và đúc kết bài học kinh nghiệm: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động".

Trong những năm thực hiện đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu sắc rằng để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.., nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”7, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con người, tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người. Đây cũng là căn cứ để Đảng ta xác định, dân chủ là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.

Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”8, “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”9.

Kế thừa, phát triển quan điểm của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ trong các thời kỳ cách mạng, Đại hội XIII xác định phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân với những điểm mới sau:

(1) Bổ sung nội dung, phương châm thực hiện dân chủ, thành “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở.

(2) Xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội.

(3) Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nền tảng chính trị, pháp lý để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ.

(4) Nêu rõ yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội” trong thực hành dân chủ, trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. “Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Động viên Nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa. Bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” là một trong mười mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

 Ủy ban MTTQ tỉnh và Ủy ban MTTQ thành phố Cẩm Phả tổ chức hội nghị tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật cho cán bộ chủ chốt của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội thành phố
và các xã, phường năm 2023.
 (Ảnh minh họa)

Công tác tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện chủ trương, quan điểm, định hướng lớn của Đảng về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Trên cơ sở Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các văn bản của Ban Bí thư đánh giá về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Bộ Chính trị (khóa XI) tiếp tục ban hành Kết luận số 120-KL/TW ngày 7/1/2016 “về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc Kết luận 120-KL/TW gắn với việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Tiếp tục cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, Ban Bí thư (khóa XII) đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 3/10/2017 về “Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2/2/2018 “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.

Đảng đoàn Quốc hội đã tập trung lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân; tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp. Ban cán sự đảng Chính phủ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế…

Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã chủ động quán triệt, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Kết luận 120-KL/TW, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai bằng nhiều hình thức; chủ động chỉ đạo tổ chức đánh giá, tuyên truyền kết quả sơ kết, tổng kết việc thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sau sơ kết, tổng kết ban hành văn bản chỉ đạo tiếp tục thực hiện.

Công tác thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Từ Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị khóa (VIII), Kết luận 120-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, ngày càng phát huy tốt hơn vai trò dân chủ đại diện của Nhân dân. Quốc hội tập trung thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013 trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Chính phủ đẩy mạnh việc thể chế đường lối, quan điểm của Đảng và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác dân vận, nhất là tập trung chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các loại hình doanh nghiệp; đặc biệt, từ mô hình chỉ có một tổ chức đại diện người lao động sang cơ chế đối thoại có nhiều hơn một tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, bảo đảm quyền có tiếng nói của người lao động.

Tăng cường tổ chức gặp gỡ, đối thoại giữa Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp, công nhân, nông dân, trí thức để lắng nghe, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, kịp thời chỉ đạo giải quyết kiến nghị, khơi thông và phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân và công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Công tác phổ biến, tuyên truyền, quán triệt, triển khai Chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội quan tâm chỉ đạo, tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên, người lao động và các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo, như tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt các cấp; họp cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; họp thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố; sinh hoạt cơ quan, chi bộ, đoàn thể; qua cổng thông tin điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội; các cuộc hội thảo, hội nghị, qua cổng thông tin điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng, chuyên mục truyền hình, phát thanh, chuyển thể thành các làn điệu dân ca, hệ thống hóa các văn bản chỉ đạo về Quy chế dân chủ và in thành sách…

Từ năm 2016 - 2021, 61 tỉnh, thành phố đã tổ chức 12.765 buổi tuyên truyền, tập huấn, trong đó 1.079 cuộc tổ chức riêng. Thông qua công tác tuyên truyền, nhận thức và hành động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và Nhân dân về dân chủ, thực hiện quyền dân chủ được nâng lên. Trách nhiệm của cán bộ, công chức, đảng viên, nhất là người đứng đầu về thực hiện dân chủ có chuyển biến rõ nét. Nhân dân ý thức được quyền, nghĩa vụ của mình, tham gia xây dựng hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh; hưởng ứng và tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước; góp phần hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Hoạt động, trách nhiệm của các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Các bộ, ban, ngành tập trung triển khai chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn chặt với chương trình phối hợp thực hiện công tác dân vận giữa Ban Dân vận Trung ương và Ban cán sự đảng Chính phủ; với trọng tâm là Kết luận số 114-KL/TW ngày 14/7/2015 của Ban Bí thư về Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”.

Các bộ, ban, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về cải cách hành chính và thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử bảo đảm thống nhất trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện từ Trung ương đến địa phương. Nhiệm kỳ 2016 - 2021, các bộ, ban, ngành đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cắt giảm, đơn giản hóa 63% điều kiện kinh doanh, 68% danh mục hàng hóa chuyên ngành, thực hiện “cơ chế một cửa”, “một cửa liên thông” giải quyết nhanh thủ tục, giảm tiêu cực; triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.

Các nền tảng Chính phủ điện tử được tập trung phát triển, tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia gắn với Cổng Dịch vụ công quốc gia, đã tích hợp trên 2.800 dịch vụ trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương. Triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng 2030; tiếp tục triển khai nhiều giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của tổ chức; phối hợp với chính quyền các cấp tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong đoàn viên, hội viên và Nhân dân các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói riêng, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, với trọng tâm là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, tham gia phòng, chống đại dịch Covid-19.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung tổ chức giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua các quy chế, quy định của Đảng, chính sách của Nhà nước; hướng dẫn đoàn viên, hội viên phát huy quyền làm chủ, thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ ở từng loại hình cơ sở tiếp tục có nhiều tiến bộ, đi vào chiều sâu. Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn có nền nếp và hiệu quả thực chất hơn, quyền làm chủ của Nhân dân được mở rộng và phát huy. Thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng đi vào nền nếp, tính công khai, minh bạch được nâng lên.

Thực hiện Quy chế dân chủ tại nơi làm việc có nhiều chuyển biến tích cực, trong đó doanh nghiệp có tổ chức đảng, công đoàn chiếm chủ đạo, thực hiện bài bản, nghiêm túc hơn. Dân chủ đại diện được phát huy, dân chủ trực tiếp được mở rộng. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực và thực hiện có hiệu quả.

Việc thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở đã phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước; dân chủ trong Đảng, trong quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước các cấp không ngừng được phát huy; bầu không khí dân chủ trong xã hội, trong sinh hoạt cộng đồng dân cư được mở rộng; góp phần hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, phòng, chống đại dịch Covid-1910; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận trong xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay

Đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên về dân chủ và thực hành dân chủ, dân chủ ở cơ sở. Cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần xác định việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên lâu dài; là biện pháp làm thay đổi căn bản cách thức điều hành, giải quyết công việc.

Các cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp phải trực tiếp lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thường xuyên kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những lệch lạc, đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Các tổ chức cơ sở đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nghiêm túc tự phê bình và phê bình việc thực hiện Quy chế dân chủ, tránh việc thực hiện dân chủ hình thức, chạy theo thành tích. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải phát huy tính tiền phong, gương mẫu thực hiện Quy chế dân chủ, tạo niềm tin trong Nhân dân. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Đưa việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thành một trong những tiêu chí để đánh giá, phân loại thi đua, khen thưởng đối với tập thể và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị.

Công tác thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Đẩy mạnh công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền đến đội ngũ và các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tuyên truyền sâu rộng các văn bản quy phạm pháp luật mới được Quốc hội thông qua như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức; Bộ luật Lao động (sửa đổi); Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,... và các văn bản pháp luật có liên quan.

Tiếp tục chỉ đạo tổ chức quán triệt Chỉ thị số 30-CT/TW, Kết luận số 120 của Bộ Chính trị khóa VIII về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các cơ quan, đơn vị trực thuộc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đảm bảo thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành tại các cơ quan nhà nước và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân.

Đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống thể chế bảo đảm thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch, ổn định và gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực thi pháp luật trên các lĩnh vực ngành, lĩnh vực; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, công khai minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả...

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương.

Phát huy vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ sở trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Tiếp tục xác định rõ hơn vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong từng việc, từng bước, từng khâu thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách thống nhất, xuyên suốt theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Những vấn đề như người đứng đầu chính quyền cấp xã đối thoại hoặc lấy ý kiến Nhân dân hoặc một bộ phận Nhân dân; giám sát việc tổ chức để Nhân dân bàn, quyết định và thực hiện các nội dung Nhân dân đã thống nhất, quyết định; tổ chức, hướng dẫn hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, những thiết chế tự quản khác ở cộng đồng dân cư; lựa chọn hình thức văn bản của cộng đồng dân cư phù hợp với nội dung quyết định và phong tục, tập quán, điều kiện thực tiễn của cộng đồng dân cư… cần có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và được quy định cụ thể.

Xác định giải pháp phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để quy định rõ về thẩm quyền của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp trong việc thực hiện các vai trò, trách nhiệm.

Để đảm bảo hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về dân chủ ở cơ sở, cần bổ sung các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi phạm, cản trở việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cản trở việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ gây mất ổn định an ninh chính trị. Đồng thời, cần đưa kết quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thành một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cấp ủy đảng, chính quyền, trực tiếp là cấp cơ sở phải lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp tốt việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thường xuyên, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, có sơ kết, tổng kết, đánh giá ưu điểm, hạn chế và kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành... nhằm đảm bảo việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có nền nếp, đem lại hiệu quả thiết thực...

Các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, công chức ở cơ sở phải phát huy vai trò và sự gương mẫu. Tổ chức đảng phải lãnh đạo bằng sự gương mẫu, kết hợp với uy tín đạo đức và đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao kỷ luật, trọng dân, thượng tôn pháp luật. Cần tổ chức cho Nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền; sinh hoạt đảng tại nơi cư trú; tham khảo ý kiến nhận xét của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên ở nơi công tác và cư trú trước khi đề bạt, bổ nhiệm nhằm nâng cao ý thức tôn trọng quyền làm chủ và ý kiến đánh giá của Nhân dân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở

Thường xuyên kiện toàn Ban chỉ đạo. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm đảm bảo Ban chỉ đạo có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ được cấp ủy giao. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy cần được thực hiện theo hướng đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo; đảm bảo rõ cơ cấu tổ chức, thành phần, số lượng thành viên Ban chỉ đạo; xây dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo.

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo là tham mưu giúp cấp ủy, trực tiếp Ban Thường vụ, Thường trực cấp ủy về những chủ trương, giải pháp nhằm mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở; tránh chồng chéo, trùng lắp với các cơ quan, Ban chỉ đạo khác của cấp ủy.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trở thành mục tiêu phấn đấu của cả hệ thống chính trị, đồng thời những kết quả đạt được tạo thành động lực to lớn giải phóng các nguồn lực xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ đất nước phát triển bền vững. Những thách thức đó đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở tổng kết lý luận, nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, thực hiện các giải pháp đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ, không được hạ thấp xem nhẹ nhiệm vụ, giải pháp nào; trong đó chú trọng nhiệm vụ, giải pháp: Đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định việc phát huy, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có hiệu quả trong hệ thống chính trị.

Đồng thời, tăng cường công tác thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhân tố có ý nghĩa quan trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong thực tiễn; phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để Nhân dân làm chủ. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ sở trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Chú thích:

1.       Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 276.

2,3.    Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.293, 409 - 410.

4.       Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 1995, tập 6, tr.515, 276.

5.       Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr. 499, 572.

6,7.    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85, 70.

8,9.    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 169, 170.

10.     Thu nhập bình quân đầu người (55/63 tỉnh, thành phố báo cáo) là 65,72 triệu đồng/năm (2020); tỉ lệ hộ nghèo bình quân (61 tỉnh, thành phố) là 4,8% (giảm gần 9% so với năm 2015); tỉ lệ hộ cận nghèo trung bình (52 tỉnh, thành phố) là 4,98% (giảm gần 4% so với năm 2015).

NGUYỄN LAM -  Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Tin liên quan
Đọc nhiều
Bình luận nhiều